GS. Trần Đình Sử
Trong bài này chúng tôi vận dụng tư tưởng sinh thái để
xem xét quan hệ giữa văn học và môi trường văn hóa, tinh thần xã hội như một vấn
đề sinh thái, không tập trung vào quan hệ con người và tự nhiên, mà xem xét môi
trường tinh thần xã hội như là môi trường sống của văn nghệ, sự tương tác giữa
môi trường văn hóa tinh thần với sáng tạo văn nghệ. Trong các công trình nghiên
cứu văn học trước đây chúng ta tập trung nghiên cứu mối quan hệ văn học với hiện
thực, với các chức năng xã hội của văn học như nhận thức, giáo dục, tuyên truyền,
thẩm mĩ trong ý thức văn học phục vụ chính trị chủ yếu là xét theo nguyên tắc ý
chí, nhân tạo, chưa xét theo sinh thái của sản xuất tinh thần. Mối quan hệ sinh
thái tự nhiên giữa văn hóa tinh thần với văn nghệ ở đây chưa được đặt ra. Vì thế
còn nhiều vấn đề trong quan hệ văn học với môi trường sinh thái chưa được xem
xét. Ví dụ vấn đề cân bằng sinh thái đảm bảo cho văn nghệ phát triển, động lực
của sáng tạo, tự do sáng tạo, sự thiếu thốn của môi trường đối với nhu cầu sinh
trưởng của văn nghệ. Quan điểm duy ý chí luận trong điều hành đời sống xã hội
đã ức chế sự phát triển của kinh tế, văn hóa, và văn nghệ. Suy cho cùng, cội
nguồn của mất cân bằng sinh thái là do sự phát triển phiến diện của xã hội và
con người. Quan điểm con người là trung tâm đã dẫn đến hủy hoại môi trường tự
nhiên; sự vận dụng lí tính công cụ dẫn đến làm lu mờ mọi hệ thống giá trị nhân
văn. Ý chí trung tâm cũng tác hại như thế. Đề cao tập thể ức chế cá nhân dẫn đến
tình trạng xã hội kém phát triển. Chủ nghĩa tiến bộ chỉ thấy hôm nay hơn
hôm qua đã hạ thấp các giá trị văn hóa truyền thống. Nghiên cứu, phê bình văn học
trong thiết chế xã hội chủ nghĩa một thời gian dài do đề cao chủ nghĩa duy vật,
coi tinh thần như một sản phẩm phụ thuộc, chỉ quan tâm văn học phản ánh hiện thực,
đấu tranh giai cấp hoặc sử dụng văn học như công cụ cũng dẫn đến mất cân
bằng sinh thái tinh thần của con người. Là một ngành của khoa nghiên cứu nhân
văn, nghiên cứu văn học hôm nay không thể chỉ đóng khung trong việc nghiên cứu
các vấn đề của nội bộ văn học nghệ thuật, như hình thức, kí hiệu, biểu tượng, mẫu
gốc, phân tâm…mà không quan tâm đến vấn đề văn hóa xã hội, vấn đề sinh thái
tinh thần của con người. Bởi văn học là sản phẩm của môi trường văn hóa xã hội,
mà trực tiếp là môi trường sinh thái tinh thần của con người. Mối quan hệ giữa
văn học và môi trường sinh thái tinh thần ngày càng được quan tâm sâu sắc trên
thế giới.
Từ sinh thái học tự nhiên, xã hội sang sinh thái học
văn hóa tinh thần
Sinh thái học (ecology) là khoa học nghiên cứu mối quan hệ
sống còn giữa sinh thể và môi trường sống của nó. Thuật ngữ sinh thái học có cội
nguồn trong tiếng Hy Lạp là oicos, nghĩa là ngôi nhà, chỗ ở, tiếng Đức là die
Okologie, tiếng Anh là the ecology. Năm 1886 do nhà khoa học Đức Enest Herkel đề
xuất. Theo ông, sinh thái học là khoa học nghiên cứu tất cả mọi quan hệ giữa cơ
thể con người với thế giới xung quanh, bao gồm tất cả các điều kiện tồn tại với
ý nghĩa rộng nhất của từ đó, cả điều kiện hữu cơ, lẫn vô cơ. Năm 1935 sinh thái
học hình thành tại các nước Anh, Mĩ bởi Tansley, Lindeman như một ngành của
sinh học chỉ hệ thong sinh thái. Toàn bộ sự sống tôn tại trong các hệ thong
sinh thái [1].
Hệ thống có thể lớn, nhỏ khác nhau. Nhỏ như cái ao, lớn như cánh rừng, miền, lục
địa hay biển hay toàn trái đất, thái dương hệ. Khái niệm then chốt của sinh
thái học là môi trường, là hệ thống các yếu tố ảnh hưởng đến sự sống của sinh vật.
Môi trường có cấu trúc, chức năng, quy luật. Trong hệ thống các yếu tố của nó tạo
thành một quan hệ tương hỗ, tác động qua lại, làm điều kiện đảm bảo duy trì sự
sống, tạo được sự lưu chuyển, tuần hoàn năng lượng, tạo cân bằng cho sự sống tiếp
diễn. Sự thích nghi và quy luật chống chịu của sinh vật sống. Sự thiếu thốn
năng lượng khiến cho một số giống cây cối, sinh vật suy tàn, nhưng các giống
cây, sinh vật khác thích nghi thì lại sinh sôi. Giữa các vùng sinh thái có các
vùng chuyển tiếp (ecotone). Nếu các giống nguyên sinh bị suy yếu thì giống ngoại
lai xâm nhập. Sinh thái học quan tâm vấn đề quan hệ, giao lưu, sự cân bằng giữa
sinh thể và môi trường. (Xem: Môi trường và con người – sinh thái học
nhân văn, Vũ Quang Mạnh, nxb Đại học sư phạm, Hà Nội, 2011).
Đến năm 1970 trước khủng hoảng sinh thái trái đất chủ
nghĩa sinh thái (ecologism) ra đời. Trong môi trường tự nhiên, sự phá hoại môi
trường tự nhiên, biến đổi khí hậu, rừng tự nhiên bị phá hủy, nguồn gen đa dạng
sinh học mất dần, chất độc hại gia tăng, không khí ô nhiểm, nguồn nước giảm thiểu,
nước biển dâng đe dọa mất đất sống, tài nguyên cạn kiệt…đe dọa cuộc sống lành mạnh
của nhân loại. Từ năm 1972 khi Hội nghị môi trường Liên Hiệp Quốc thông
qua Tuyên ngôn môi trường nhân loại, toàn nhân loại đang đứng
trước khủng hoảng môi trường chưa từng có. Từ năm 1973 khi Arne Jonas nêu khái niệm
“sinh thái học chiều sâu”, cùng với vấn đề hệ thống sinh thái, đề ra sinh thái
tinh thần của con người đã có một tư tưởng sâu sắc.Từ đó trong nghiên cứu nhân
văn đã có sự chuyển biến về phía sinh thái tinh thần. Các nhà khoa học sinh
thái đã dần dần chuyển con mắt chú ý từ khoa học sinh thái tự nhiên, sinh thái
xã hội sang sinh thái học tinh thần của con người. Triết học sinh thái, thần học
sinh thái, chính trị học sinh thái, luân lí học sinh thái, tâm lí học sinh
thái, mĩ học sinh thái, ngữ học sinh thái, nghệ thuật học sinh thái, nhân loại
học sinh thái, sinh lí học sinh thái, kinh tế học sinh thái, nữ quyền sinh
thái, chủ nghĩa nhân văn sinh thái, văn học sinh thái… đều là những nhánh
nghiên cứu mới. Sinh thái trở thành một quan điểm, một thế giới quan mới,
một quan niệm xuyên suốt để người ta nhin nhận tự nhiên, xã hội, ,
sự sống, hoàn cảnh, vật chất, văn hóa, nhìn nhận mọi vấn đề liên quan đến con
người, trong đó có văn học. Quan điểm đó là coi trọng mọi quan hệ tự nhiên giữa
con người và môi trương, coi trọng quan hệ mình, kẻ khác và môi trường tự
nhiên; Mọi yếu tố , từ tự nhiên, xã hội, đều là không tách rời của sinh tồn con
người. Theo quan điểm đó, phê bình văn học theo quan điểm sinh thái tinh thần
cũng xuất hiện là phù hợp với tinh thần thời đại, tinh thần văn hóa sinh
thái.
Phê bình văn học từ sinh thái học tự nhiên sang sinh
thái học tinh thần
Ở phương Tây nói
phê bình văn học sinh thái trước hết là nói đến phê bình văn học sinh thái tự
nhiên[2].
Phê bình sinh thái tinh thần là một bộ phận của phê bình sinh thái nói chung,
bên cạnh phê bình sinh thái tự nhiên, phê bình sinh thái xã hội. Từ năm 1966
khi tác giả Mĩ Kitchell Carson viết sách Mùa xuân lặng lẽ (Silent
Spring)miêu tả cảnh tượng trái đất chết, tư tưởng sinh thái đã làm xôn
xao dư luận. Năm 1996 nhà phê bình sinh thái Mĩ là Cheryll Glotfelty trong
sách Văn bản phê bình sinh thái do bà chủ biên nêu định nghĩa
phê bình sinh thái là “Phê bình sinh thai nghiên cứu mối quan hệ con người
và môi trường vật chất xung quanh. Cũng giống như phê bình nữ quyền từ góc độ
giới tính mà phê bình ngôn ngữ và văn học. Phê bình mác xít đem phương thức sản
xuất và tự giác giai cấp làm nguyên tắc đọc hiểu văn bản, thì phê bình sinh
thái lấy tư tưởng quả đất làm trung tâm để phê bình văn học.” (Dẫn theo Vương
Nhạc Xuyên [3]).
Đó là phê bình sinh thái tự nhiên. Phê bình sinh thái xã hội quan tâm các vấn đề
như sinh đẻ có kế hoạch, giới tính, họ tộc, tộc người, chủ và thợ, các chính
sách. ..đảm bảo sự cân bằng đời sống xã hội. Phê bình sinh thái tinh thần đặt ở
một bình diện khác: nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường tinh thần xã hội đối
với đời sống tinh thần, với sáng tác văn học, tác động của văn học đối với môi
trường tinh thần của con người. Nhà triết học Pháp Pierre Teilhar de Chardin yếu
cầu phải giành cho hiện tượng tinh thần một vị trí xứng đáng trong quá trình tiến
hóa của nhân loại, chứ không phải chỉ môi trường tự nhiên, sự chọn lựa tự
nhiên. Trong quá trình tiến hóa của con người từ vượn biến thành người yếu tố
tinh thần đóng vài trò hết sức to lớn, thậm chí quyết định. Trong quan hệ sinh
thái địa lí, yếu tố tinh thần cũng có địa vị không thể thiếu. Tinh thần là một
hàm số (biến lượng) quan trọng trong hệ thống sinh thái địa cầu. Thông qua sự
chuyển biến về ý thức tinh thần con người có thể điều tiết sinh thái tinh thần
của mình, duy trì hệ thống sinh thái địa cầu cho sự sống. Năm 1995 giáo sư tiếng
Anh người Mĩ Lawrence Buell, Đại học Harvard trong tác phẩm Tưởng tượng
hoàn cảnh: Sự cấu thành của Thoreau, viết tự nhiên và văn hóa Mĩ đem
tinh thần sinh thái đưa vào lí luận và phê bình văn học, cuốn sách này được coi
là một cột mốc của phê bình văn học sinh thái trên thế giới. Buell đã chỉ ra
phê bình văn học thế kỉ XX đã đánh mất tọa độ nhìn thẳng vào thế giới thực tại.
Nhà phê bình phải nhìn thấy khủng hoảng môi trường, nhất là môi trường văn hóa.
Phê bình văn học sinh thái là một hoạt động liên ngành. Chỉ đi sâu vào mĩ học
hình thức, văn học khép kín là không đến được với phê bình sinh thái. Phê bình
sinh thái cũng không giản đơn chỉ là ngoại quan, nó kết hợp cả ngoại quan lẫn nội
quan để phát hiện các vấn đề trong quan hệ văn học và mói trường tinh thần. Phê
bình sinh thái đòi hỏi phải kêt hợp với triết học, địa lí học, tâm lí học, nhân
học xã hội, sử học, tôn giáo, giới tính, chủng tộc, hấp thu nhiều mô hình
nghiên cứu thì mới có được phương pháp luận thích hợp. Lúc đầu phê bình sinh
thái tương đối giản đơn, ví dụ như yêu cầu văn học phái khiến cho người đọc trở
về với tự nhiên, phê phán việc tán dương sex trong văn học, dần dần họ nhìn nhận
văn học qua lăng kính sinh thái, quan hệ sinh thái tinh thần với sinh thái tự
nhiện, sinh thái xã hội. (Dẫn theo bài của Vương Nhạc Xuyên)
Tóm lại phê bình sinh thái tinh thần theo cách hiểu của
các nhà phê bình sinh thái Mĩ và phê bình sinh thái Trung Quốc như Lỗ Khu
Nguyên, Vương Nhạc Xuyên là kiểu phê bình văn học lấy tư tưởng sinh thái làm
trung tâm, qua đó giải quyết các vấn đề sinh thái xã hội, xác lập lí tưởng sống
cao đẹp, khắc phục các ô nhiểm tinh thần, khiễn tinh thần trong sạch, cân bằng,
góp phần làm ổn định xã hội.
Chúng tôi hiểu phê bình sinh thái tinh thần trên một bình
diện khác.: xem đời sống tinh thần xã hội là bối cảnh của sang tạo văn học, coi
đó là mảnh đất, vườn ươm các sang tạo nghệ thuật. Ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm,
không khí, nước, phân của môi trường tinh thần sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sang
tác văn nghệ. Quan điểm này đã được đề xuất trong sách của hai tác giả Mĩ
P. K. Bock Văn hóa đa nguyên và tiến bộ xã hội (nxb Nhân Dân
Liêu Ninh dịch in 1988, ), F. Plog và Bates Diễn tiến văn hóa và hành
vi của nhân loại(nxb. Nhân dân Liêu ninh, 1988), tác giả Nhất Mai Trác
Trung Phu Sinh thái sử quan về văn minh (Thượng Hải, nxb Tam
Liên, 1988), Nghiên cứu sinh thái học văn học – hài kịch của sinh tồn của
tác giả Joseph W. Meeker, 1972. Ở đây văn nghệ được xem như một sinh thể, các
các yếu tố của môi trường văn hóa tinh thần có tác dụng nuôi dưỡng,tác động đến
văn nghệ gọi là môi trường sinh thái văn nghệ. Con người là động vật văn hóa,
vì có sự tương tác của ba cơ chế thích nghi sinh thái học: 1. cơ chế động lực tự
duy trì sinh tồn của bản thân con người, 2. con người đòi hỏi một xã hội có giá
trị sinh tốn, 3. con người thúc đẩy sự nhận thức các hiện tượng có quy luật của
thế giới. Ba cơ chế này có giá trị phổ quát để giải thích sự ra đời của văn
hóa, và đó cũng là mấu chốt của tính phổ biến của văn hóa và văn học nghệ thuật
nói chung.
Trong cách tiếp cận này khái niệm trung tâm là sinh thái
văn hóa tinh thần. Sinh thái là quan hệ tương tác sinh tồn giữa văn học nghệ
thuật với môi trường văn hóa tinh thần xã hội. Văn hóa đã có hàng trăm nghìn định
nghĩa, ở đây chọn cách hiểu văn hóa là toàn bộ phương thức tồn tại người, nhân
hóa của con người. Văn học nghệ thuật được coi như một hiện tượng sống của xã hội,
vì nhu cầu xã hội mà nó được sinh ra và phát triển. Quan hệ giữa văn nghệ với
môi trường sinh thái tinh thần là quan hệ cộng sinh, đáp ứng, thích nghi, lựa
chọn, biến đổi, phát triển, biến dạng theo điều kiện môi trường. Nghiên cứu lao
động nhà văn người ta nêu ra bộ mặt xã hội của nhà văn với thế giới quan, kinh
nghiệm sống, nghề thứ hai, các cuiocj du lịch, , đặc thù của lao động nhà văn,
về vốn liếng có tri thức, vốn vưn học dân gian, văn học nước ngoài, văn học dân
tộc năng lực quan sát và tự quan sát…, ý đồ, tư tưởng, sang tác, sửa chữa… Đối
với quan điểm sinh thái người ta quan tâm các điều kiện nuôi dưỡng các phẩm
chất ấy. Điều kiện nào thi trí tưởng tượng được phát triển, điều kiện nào thì
cá tính được phát huy. Xá hội học nghiên cứu các mối quan hệ qua lại giữa nhà
văn và xã hội, chủ yếu là các cơ chế ràng buộc lẫn nhau giữa nhà văn và xa hội,
xã hội được dung làm nguyên tắc lí giải văn học, là nội dung của văn học. Xã hội
học Pháp thế kỉ XIX với Hippolyte Taine xem ba yếu tố dân tộc, hoàn cảnh, thời
đại là ba yếu tố quyết định tính chất của văn học,nghệ thuật. Trong xã hội quân
chủ cùng một điều iện, song có nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật, nhà nho tài tử,
khong thể giải thích bằng một quyết định luận được.
Quan điểm sinh thái không phủ nhận tác động xã hội, song
nó quan tâm sự phản ứng, lựa chọn, thích nghi, quan tâm chất lượng của sang tạo,
chứ không chỉ có sự giai thich một chiều. Như thế quan điểm sinh thái khác với
xã hội hộc, tâm lí học, nghiên cứ lao động nhà văn.
Từ cổ xưa văn nghệ đã nảy sinh trong điều kiện lịch sử nhất
định, đáp ứng các nhu cầu thẩm mĩ, giải trí, tôn giáo, xã hội một cách hồn
nhiên. Môi trường văn hóa tinh thần chịu sự chi phối sâu sắc của các điều
kiện kinh tế, xã hội, các thiết chế chính trị hành chính như chính sách, đường
lối chính trị, nhà trường, pháp luật, báo chí, các tổ chức, hội đoàn, nhà xuất
bản, chế độ kiểm duyệt, các tư tưởng, tôn giáo, phong tục tập quán, tâm lí tiếp
nhận của người đọc, đời sống phê bình. Các yếu tố ấy là môi trường sinh thái của
văn học. Các yếu tố thế giới quan, thế giới cảm, trạng thái tinh thần của cá
nhân, nhóm xã hội, các ảnh hưởng văn hóa nước ngoài đều là yếu tố của sinh thái
tinh thần. Điều kiện tinh thần xã hội giống như ngôi nhà, mảnh đất và khí hậu
nuôi dưỡng tác phẩm. Ta có thể tính đến các yếu tố như trạng thái tinh thần xã
hội, di sản văn hóa dân tộc, sự phiên dịch văn hóa, văn học nước ngoài, văn học
dịch, ý thức phê bình, bầu không khí sinh hoạt chính trị, tư tưởng xã hội…
Trong mối quan hệ giữa cá thể tinh thần với hệ giá trị của cái tôi, khi hệ giá trị
của cái tôi bị sa sút, không còn sức quy phạm hành vi thì sự tha hóa
đạo đức, lối sống, sự xuống cấp mọi chuẩn mực ứng xử, các gía trị văn hóa không
thể tránh khỏi và ngày càng gia tăng. Trong điều kiện đó mối quan hệ giữa cá thể
tinh thần với thế giới mà nó sống trong đó cũng có thể cảm thấy được sẽ thế
nào.
Sinh thái tinh thần, xã hội có tính lịch sử, biến động
trong thời gian. Đó là một xã hội sau chiến tranh với biết bao vết thương. Một
xã hội tiến lên hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa, kinh tế thị trường,
xã hội tiêu thụ, tốc độ đô thị hóa chóng mặt, nông thôn đổi thay, bất bình đẳng
xã hội gia tăng, giàu nghèo phân cực. Nạn tham nhũng trở thành quốc họa. cùng với
nó là sự xuống cấp của đạo đức, lối sống không cách gì ngăn chặn. Sự đột biến về
ý thức hệ sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, khủng hoảng về lí tưởng, niềm
tin, tạo nên khoảng trống trong tâm hồn, thừa cơ các thứ mê tín dị đoạn, đồng cốt,
ngoại cảm tràn lan trong đời sống. Quan niệm sống gấp, vật dục, dục vọng cá
nhân lên ngôi. Trong đó có biết bao mâu thuẫn, nguy cơ, cạm bẫy. Không
khí tinh thần ấy cho phép sản sinh ra những sản phẩm nghệ thuật nào, những kiểu
nhà văn nào, những thể loại văn học nào, ngôn ngữ biểu đạt nào. Kinh tế thị trường
với chủ nghĩa tiêu dùng tràn lan, quan niệm hạnh phúc tầm thường của lớp người
trung lưu mới nổi làm cho các loại văn học giải trí rẻ tiền, các loai văn
chương câu khách xuất hiện tràn lan.
Nhưng sự tồn tại của các hình thức nghệ thuật lại phụ thuộc
vào điều kiện sinh thái văn hóa xã hội. Số phận của các loại hình nghệ thuật
truyền thống như chèo, tuồng, cải lương, ca trù, truyện nôm cho thấy sinh thái
của chúng đã thay đổi mà con người phải có chính sách điều tiết để duy trì sự sống
của chúng. Phê bình sinh thái tinh thần tạo ra một góc nhìn mới, mài sắc
vấn đề sinh thái trong lĩnh vực hoạt động sang tạo tinh thần của con người.
Các phạm trù và quy luật của sinh thái tinh thần.
Ví tinh thần với sinh vật học là phương pháp của
Hippolyte Taine. Brandes ở thế kỉ XIX. Plekhanov cũng coi tâm lí xã hội là
nguyên nhân của các sản xuất tinh thần. Đó chỉ là ngyên tắc giải thích. Vậy
nghiên cứu sinh thái tinh thần có gì mới so với các truyền thống ấy? Sinh thái
tinh thần không phủ nhận cơ sở vật chất của nó. Không coi đó là nguyên nhân cuối
cùng của văn học nghệ thuật. Nhưng mặt khác nó xem đời sống tinh thần là một hệ
thống gồm nhiều nhân tố ràng buộc, làm điều kiện cho nhau, thỏa mãn nhau cho cuộc
sinh tồn tinh thần. Trước hết cấn tìm hiểu các khái niệm tinh thần, môi trường
tinh thần, sáng tạo tinh thần của con người.
Tinh thần là lĩnh vực sự sống của con người, là
thuộc tính bản chất của con người. Người sở dĩ là người là do có thuộc tính
tinh thần đó. Con người tuy là sản phẩm vật chất, song đời sống đích thực của
nó là tinh thần. Tinh thần là tồn tại được ý thức, trước hết là ý thức về cái
toàn thể mà mình thuộc vào, hai là ý thức về bản thân mình ở trong đó, ba là ý
thức về mình với thế giới. Tinh thần không giản đơn chỉ là sự phản ánh, mà là một
phương thức tồn tại của con người, một phương thức tồn tại siêu hình của con
người. Trước hết là trong từng cá thể và cùng với nó là quần thể, cộng đồng, với
ngôn ngữ cùng các hệ thống kí hiệu, với tất cả các phương tiện lưu giữ chúng
như sách vở, thư viện, viện bảo tàng, chùa chiền, nhà thờ, lễ tục…Với hệ thống
kí hiệu, hay đúng hơn, như Lotman nhận thức, với cái kí hiệu quyển, trí
tuệ quyển do mình sang tạo ra, con người tồn tại và tác động ngoại giới
qua thế giới tinh thần do mình tạo ra đó. Nhà phê bình văn học Trung Quốc đương
đại Lỗ Khu Nguyên nêu khái niệm tinh thần quyển và giải thích:
Trên trái đât này, bên trên đời sống kinh tế xã hội chính trị của con người còn
lửng lơ một cái vòng, một cái vòng mà nội dung gồm niềm tin, tín ngưỡng,
lí tưởng, tưởng tượng, phản tư, cảm ngộ, đòi hỏi, ước mơ, cái vòng lửng
lơ này chính là cái vòng tinh thần của trái đất. Nó quan tâm đến tồn tại
tinh thần, tồn tại tâm linh của con người. Môi trường xã hội làm đổi thay cái
vòng tinh thần ấy. Con người không chỉ cần một chốn ở trong tự nhiên, mà còn cần
một chốn ở trong tâm hồn, nó dựa vào đâu, tin vào ai, lấy sức mạnh từ đâu để tồn
tại, tồn tại theo nguyên tắc nào…Không ai có thể tồn tại ở ngoài kí hiệu quyển,
trí tuệ quyển, hay cái vòng tinh thần này được. Con người có tính mục đích,
tính ý hướng, tổ chức và hoạt động theo các tính chất đó. Tinh thần của con người,
theo Teilhar de Chardin và Scheler cùng một số học giả khác có năm tính
chất: 1. Tính độc lập, tự do. Nó phản xạ thực tại và sáng tạo không
gian cho mình. Tinh thần độc lập với thể xác, với hoàn cảnh xung quanh; 2. Tinh
thần là ý hướng tự ý thức, là sự phản tư chính mình, lấy mình làm đối tượng, tự
vượt lên chính mình, tự nâng cao mình. Tinh thần coi tồn tại của bản thân con
người là đối tượng, nảy sinh tư duy. 3. Tinh thần là một cấu trúc chỉ thuộc về
con người, một cấu trúc hành vi tự sản sinh. 4. Là một ý hướng của tâm hồn,
tinh thần là cái vạch phương hướng cho sự sống bản năng. 5. Lí tính của
tinh thần nắm bắt được bản chất của thế giới và tách bạch bản chất khỏi sự tồn
tại của con người [4][5].
Tinh thần là một quá trìnhtư duy, sản sinh ý nghĩ,
tư tưởng, cảm xúc, tình cảm thể hiện dưới các hình thức như lời nói, câu ví, tục
ngữ, tác phẩm các loại ca dao, truyện cười, giai thoại, thơ ca, tiểu thuyết hoặc
khái niệm, phạm trù, khoa học. Tinh thần có tính sang tạo mà cũng có tnhs bảo
thủ. Tinh thần có không gian tồn tại của nó. Có sản phẩm chỉ xuất hiện trong
bóng tối, có loại chỉ xuất hiện trong môi trường quan phương như báo, tạp chí,
các ấn phẩm của các cơ quan do nhà nước quản lí. Chúng không ngừng sinh sôi,
phát triển, hoặc thui chột, tàn héo tùy theo môi trường sinh thái.
Môi trường sinh thái tinh thần có các không gian chính
thống, phi chính thống, trung tâm, ngoại biên, trong nước, ngoài nước…Các vấn đề
sinh thái của văn học nảy sinh trong các không gian và giữa các không gian. Ở mối
trường sinh thái vi mô, như quần nhóm sinh tồn, như gia đình, bạn bè, nghề nghiệp;
có môi trường sinh thái khu vực, mức giữa như khu vực, tỉnh thành và có môi trường
sinh thái vĩ mô, bao quát toàn quốc hay quốc tế. Mỗi phạm vi có quy luật sinh
thái của riếng nó.
Môi trường sinh thái bao gồm toàn bộ truyền thống tinh thần
nuôi dưỡng nó, từ phong tục, tập quán, tôn giáo đến các truyền thống triết học,
khoa học, lí thuyết ở địa phương, trong nước và quốc tế. Môi trường này thể hiện
trong chế độ giáo dục, trong hệ thống sách vở kinh điển, hệ thống giáo trình,
sách giáo khoa, trong hệ thống thư viện, các chính sách văn hóa, các chế độ xuất
bản, các tạp chí, báo hàng ngày, các chương trình phát thanh truyền hình, các
loại bảo tàng.Trong những năm 60 chúng ta phong tỏa các sách văn học trước
1945, các sách bị coi là lạc hậu, đồi trụy, văn hóa thực dân cũ, thực dân mới,
các sách xét lại hiện đại, tư sản, phi mác xít…nhằm hướng người đọc vào văn học
cách mạng có tính lạc quan và chiến đấu. Lich sử cũng được biên soạn lại theo lập
trường mới. Các đường phố đều đặt lại tên mới, các thôn, xã cũng đặt tên mới
như Quyết tiên, quyết thắng, hoặc đặt theo con số, thôn một thôn hai, để người
dân sống trong một không gian tinh thần khác hẳn với truyền thống. Tất cả những
điều này lại tạo thành hệ thống kí hiệu mới phân biệt với hệ thống kí hiệu cũ.
Dần dần con người xa lạ hẳn với truyền thống văn hóa dân tộc mình và với chính
mình, mà sống trong nền văn hóa xã hội chủ nghĩa với các tiêu chí bốn tốt, năm
tốt, họ đánh mất niềm tin và sự thông hiểu giá trị truyền thống. Toàn bộ các
hành vi đi ngược với văn hóa truyền thống hiện nay là hệ quả của việc làm người
dân xa lạ với truyền thống văn hóa của dân tộc, địa phương. Nói cách khác là
cách li con người khỏi văn hóa truyền thống, đặt họ vào hệ thống kí hiệu văn
hóa mới với cờ đỏ búa liềm, cờ đỏ sao vàng, ảnh, tượng Hồ chủ tịch, tên phố tên
làng mới, các cuộc miting, lễ hội mới, nay kỉ niệm, mài suy tôn…và do đó đánh mất
hệ giá trị văn hóa truyền thống trong tâm thức người dân. Đó là điều khiến họ
vô cảm với các giá trị truyền thống.
Đặc biệt nhu cầu tinh thần của con người thực tế là một
nhân tố sinh thái quyết định. Nhu cầu nào sản phẩm ấy. Giữa môi trường và sáng
tạo tinh thần luôn luôn có sự thích nghi, sự cân bằng sinh thái giữa môi trường
và chủ thể sáng tạo, sáng tạo và sản phẩm Bản thân sáng tác đòi hỏi một
sinh thái tương thích với nó. Sinh thái biến đổi kéo theo biến đổi trong sáng
tác. Ví dụ, sinh thái thời chiến với nhu cầu tuyên truyền làm biến chất thể loại
phóng sự điều tra, chỉ còn thể kí sự, bút kí. Nó cũng làm mất thể loại tản văn.
Nhưng sang thời bình với nhu cầu đổi mới lại làm sống lại thể phóng sự và tản
văn.
Tự nhiêncũng là yếu tố quan trọng của sinh thái tinh
thần. Tự nhiên là cái gốc của sự sống. Thiên nhiên, là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn
con người. Hoa cỏ, cây cối, bốn mùa xuân hạ thu đông, tình người tự nhiên, tình
trai gái, tình gia đình máu mủ tình quê hương cũng là bộ phận tự nhiên trong
sinh thái tinh thần. Những ai chỉ nhìn tự nhiên như khách thể nhận thức, mà
không sống với tự nhiên sẽ không bao giờ hiểu được các bí ẩn của tự nhiên cùng
những thi vị, mĩ cảm của tự nhiên. Khi đô thị hóa lấp bằng các cánh đồng lúa và
cây trái, đương nhiên tinh thần con người cũng theo đó mà mờ nhạt. Xây dựng
tình “đồng chí”, cắt đứt cái tình tự nhiên của con người cũng là biến dạng sinh
thái tinh thần của con người. Chủ nghĩa lí tính, chủ nghĩa khoa học là tác nhân
khiến cho thế giới tinh thần mất cân bằng. Người Trung Quốc nhìn thấy trong tư
tưởng thiên nhân hợp nhất thời cổ đại một mô hình của sinh thái tinh thần. Người
và thiên nhiên có một quan hệ cảm ứng.
Đặc điểm của sinh thái tinh thần là tính tự nhiên,
giống như môi trường tự nhiên. Các phong trào phi tự nhiên thường phá vỡ sinh
thái tinh thần của con người, khiến nó bị biến dạng.
Các yếu tố của sinh thái văn học gồm sáng tác, phê bình,
lí thuyết văn học, truyền thống văn học, tiếp nhận văn học, văn học dân tộc và
văn học thế giới dưới dạng nguyên văn hay văn học dịch. Các yếu tố của sinh
thái còn gồm các thiết chế như hội đoàn văn học, các báo, xuất bản, các chủ
trương chính sách, cá giải thưởng văn học và sự điều hành của chúng. Bao quát tất
cả là sinh thái tinh thần thời đại. Nhân tố thời đại của sinh thái tình văn học
đề cao lí thuyết nào, tư tưởng nào, tiêu chí nào lí thuyết và phê bình văn học.
Lí thuyết mới, giàu sức sống, kích thích sáng tạo, khi lí thuyết khô cằn, nhà
văn quay lưng đi tìm lí thuyết khác để lí giải đời sống. Phê bình có thể tác dụng
kích thích sáng tác mà cũng có thể không có tác dụng gì, hoặc bản thân nó cũng
biến tướng thành quảng cáo, tiếp thị hoặc biến tướng thành công cụ đấu tranh tư
tưởng thuần túy. Tất nhiên phê bình vũ khí nếu đi kèm với cấm đoán, với xử lí về
hình chính hoặc hình sự sẽ gây nguy hiểm cho sinh mệnh nhà văn và sáng tác của
họ.
Quan hệ khu vực, quốc tếtrong thời đại hội nhập,
toàn cầu hóa tri thức, nảy sinh mâu thuẩn, xung đột của các nền văn hóa giữa
các nước có trình độ cao và các nước có trình độ thấp, xảy ra tinh trạng nước
chảy chỗ trũng, các nước đi sau hướng theo các nước tiên tiến, du nhập sản phẩm
văn hóa các nước ấy, lấy đó làm phương hương bắt chước hoặc định hướng sáng tạo
cũng là một vấn đề của sinh thái tinh thần.
Con ngườicũng là yếu tố của sinh tháo tinh thần.
Các giai tầng trong xã hội có sinh thái tinh thàn của nó. Giai tầng quý tộc xưa
là nơi lưu giữ tinh hoa văn hóa dân tộc, còn tầng lớp bình dân lưu giữ văn hóa
đại chúng. Khi tầng lớp quý tộc bị triệt tiêu, bình dân lên ngôi thì sinh thái
tinh thần bị hạ thấp. Trong thị dân tầng lớp đại gia ăn chơi xa xỉ cũng là nới
sản sinh các điển mẫu tinh thần có sức kích thích sự bắt chước.
Sinh thái tinh thần cũng có cấu trúc, giống như cấu trúc
sinh thái tự nhiên, gồm vật vô sinh, vật hữu sinh, hệ vi sinh vật, hệ sinh vật
thực vật. Tổng hợp các yếu tố văn hóa tinh thần nói trên tạo thành cấu
trúc sinh thái, gồm các yếu tố từ thô thiển, thấp kém nhất đến các yếu tố tinh
vi cao cấp nhất. Tuy nhiên trong sinh thái tinh thần yếu tố chin trị đạo đức
đóng vai trò chi phối. Nếu sự chi phối hạn chế đến cả sự lựa chọn của cá nhân
thì xã hội không thể phát triển., lúc đó con người chirnhuw những cái máy vô hồn.
Trong sinh thái tinh thần luôn luôn có mâu thuẫn
giữa ý muốn chủ quan và quá trình khách quan. Ví như ý muốn bảo tồn di sản
quá khứ với xu thế tiêu dùng trái chiều. Ví dụ số phận của các loại hình văn
nghệ cổ truyền như tuồng, chèo, cải luương, ca trù với nhu cầu người xem đương
đại.
Trong sinh thái tinh thần cũng có vấn đề giữa môi trường
thanh sạch, chống các ô nhiễm tinh thần, rác thải tinh thần, virus tinh thần.
Nhận ra sự ô nhiễm tinh thần, là điều kiện để ngòi bút phê phán của nhà văn và
nhà phê bình thêm sắc bén.
Sự biến đổinhanh chóng môi trường sinh thái tinh
thần do các đột biến về chính trị tư tưởng như sự sụp đổ của phe xã hội chủ
nghĩa, nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa thế giới cũng gây biến động lớn trong sáng
tác văn nghệ. Sự thay đổi môi trường chiến tranh sang môi trường hòa bình, môi
trường bao cấp sang môi trường tiêu dùng của xã hội thị trường, kinh tế hàng
hóa cũng làm biến động dữ dội sinh thái tinh thần xã hội.
Nghiên cứu và phê bình văn học trong môi trường sinh
thái tinh thần.
Nghiên cứu, phê bình văn học trong môi trường văn hóa
sinh thái tinh thần là khám phá, phân tích mối quan hệ tương tác giữa hoạt động
sáng tạo của nhà văn với môi trường văn hóa sinh thái bao quanh nó, quan hệ của
hệ thống thể loại, hệ thống ngôn ngữ, hình tượng, đặc biệt tâm lí sang tác, ý
hướng của nhà văn, sự lựa chọn các khả năng mà môi trường cung cấp để tự thực
hiện chính mình. Quan hệ sinh thái thể hiện trong sang tác với tư cách là hoạt
động diễn ngôn, đối thoại, phản ứng, đáp trả…để tạo ra một hệ thống giá trị nghệ
thuật thẩm mí đặc trưng cho môi trường tinh thần, tức là đặc trung cho thời đại.
Ở đây chúng tôi xin nêu mấy quan hệ sinh thái văn nghệ.
Môi trường sinh
thái tinh thần và cá tính.
Cá tính là hiện tuwngj tự hiên của con người, son cá tính
chỉ được thừa nhận, được ý thức và phát triển trong điều kiện xã hội nhất định.
Cá tính trong văn học trung đại khác hẳn tời hiện đại về mức độ và sự đa dạng.
Cá tính được coi là “ngông”, một phẩm chất tiêu cực, cá biệt. Nó không phải là
phương thức tồn tại của con người. Trong xã hội sản xuất hàng hóa cá tính là
phương thức tồn tại, là khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội. Tôi khác
biệt có nghĩa là tôi tồn tại. Người không có cá tính được xem là người vô nghĩa
(xem Tỏa nhị kiều). Trong xã hội cộng sản mà có thời chúng ta đã xây dựng cá
tính là đối lập với tập thể, là cá nhân chủ nghĩa, không có lí do tồn tại. Cá
tính chỉ là một số khác biệt hình thức bề ngoài. Lịch sử chứng kiến khi môi trường
sinh thái biến đổi con người từ quần thể chuyển sang cá tính (như Tản Đà) và
ngược lại, khi sinh thí thay đổi, lại chuyển từ con người cá tính sang con người
tập thể (như Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu…) và cách thức mà các nhà văn tìm cách
bảo lưu cá tính của mình. Môi trường sinh thái đổi thay đã khiến nhiều nhà văn
thay đổi nghề nghiệp, từ phê bình văn học chuyển sang nghiên cứu văn học dân
gian hoặc chuyển sang nghiên cứu văn học cổ.
Môi trường sinh
thái tinh thần với thể loại văn học
Môi trường sinh thái là thay đổi hệ thống thể loại văn học.
Văn học trung đại chỉ có thể là văn học từ chương, sang tác theo câu chữ có sẵn,
mỗi tác giả chỉ có thể biến đổi tí chút, khó có biến đổi lớn so với truyền thống.
Văn học cận đại chyển sang tuyên truyền và trữ tình, , nhưng phải đến phong
trào thơ mới mới thật sự thay đổi thi phpas cũ đề trở thành một thể thơ hiện đại,
vừa có hình thức tự do vừa thể hiện cá tính. Văn học 1932 – 1945 đã thay đổi
căn bản hệ thống thể loại văn học theo quỹ đạo văn học hiện đại của thế giới.
Sau năm 1945 việc chuyển đổi cả nền văn học sang văn học tuyên truyền là đặc điểm
nổi bật nhất của văn học cách mạng Việt Nam sau 1945. Từ trong nền văn học
tuyên truyền ấy Tố Hữu nổi lên như một mẫu mực của văn học tuyên truyền, thơi
trữ tình chính trị. Suốt ba mươi năm chiến tranh không có một hiện tượng đổi mới
thơ. Tiểu thuyết trở thành sử thi. Phóng sự biến thành kí sự. Thể loại tản văn
biến mất.Tùy bút là thể loại dễ bị phê phán. Tùy bút của Nguyễn Tuân kí sự hóa.
Tập thơ Xuân Diệu phần “riêng” gây tranh cãi, phần “chung” thường sống sượng,
ít thành công.
Môi trường sinh
thái tinh thần với phong cách nghệ thuật
Chúng ta thường nói đến phong cách cá nhân, song trên thực
tế, phong cách thời đại là hiện tượng phổ biến. Đến lượt mình phong cách chung
chi phối phong cách thể loại, phong cách cá nhân. Sáng tác văn học trong thời
kì văn học trung đại tiến hành trong môi trường khoa cử, trong truyền thống văn
học Trung Quốc được coi là khuôn vàng thước ngọc, trong điều kiện không có kinh
tế hàng hóa phát triển, ý thức cá nhân chưa phát triển, không có báo chí, xuất
bản, không có phê bình, sang tác văn học chỉ có môi trường nhóm nhỏ, phê bình
dưới hình thức phê điểm hoặc viết tựa, bạt, chép tay lưu truyền. Tác phẩm có sức
lan tỏa lớn thì được chép lưu truyền rộng hơn, thậm chi được khắc ván in bán.
Trong quá trình đó người ta có thể sửa chữa, thêm, bớt, tạo thành nhiều dị bản.
Tính quy phạm là tiêu chí phê bình. Văn học chữ Nôm chịu ảnh hưởng văn học dân
gian sâu sắc. Tác phẩm văn học trung đại đã xây dựng một thế giới tinh thần
theo đạo nho, đạo phật hoặc đạo gia, một thế giới của đạo với hệ thống các giá
trị của nó như sùng thượng tự nhiên, ôn nhu đôn hậu, nhàn, lập công báo quốc,
trung tín…
Văn học hiện đại 30 – 45 đổi thay căn bản môi trường sinh
thái tinh thần, thay đổi quy phạm, hệ thống thể loại, tiêu chuẩn sáng tác, thay
đổi truyền thống văn học, thay đổi chủ thể, thiết chế sáng tác , phê bình, in ấn,
xuất bản, lưu truyền. Môi trường sinh thái tinh thần lúc này có thể nói bao
quát toàn thế giới. Nhà văn tìm tòi sang tác theo hầu hết các thể loại văn học
hiện đại trên thế giới. Nhà văn có thể bị hạn chế về chính trị, song hoàn toàn
có tự do bên trong để lựa chọn đề tài, chủ đề, phong cách, thể loại, ngôn ngữ,
lựa chọn truyền thống. Văn học Nam bộ, văn học miền bắc và vùng miền khác có sự
khác biệt sinh thái rõ rệt. Môi trường sinh thái ấy kích thích tìm tòi sang tạo,
đổi mới văn học so với truyền thống, làm nên một giai đoạn độc nhất vô nhị
trong lịch sử văn học Việt Nam. Văn học hiện đại đã hình thành mọt hệ thống giá
trị nhân văn mới, đề cao giá trị cá nhân, yêu nước, khát vọng tự do độc lập,
lên án mọi bất công xã hội, tố cáo tội ác vùi dập con người.
Văn học cách mạng Việt Nam trong 30 năm chiến tranh giải
phóng dân tộc và bước đầu đi lên chủ nghĩa xã hội có một môi trường sinh thái
khác hẳn. Văn học cách mạng đề cao lí tưởng độc lập dân tộc, tư tưởng hy sinh
vì Tổ quốc, vì cách mạng giải phóng dân tộc, hướng tới ngày mai xã hội chủ
nghĩa, xóa bỏ mọi bất công, áp bức. Tuy trong bối cảnh độc lập, nhưng cả nước ở
vào hoàn cảnh chiến tranh; đảng lãnh đạo theo đương lối chuyên chính vô sản, tư
tưởng xã hội ở vào thời kì chến tranh lạnh, đấu tranh ý thức hệ quyết liệt giữa
hai phe tư bản và phe xã hội chủ nghĩa, học thuyết đấu tranh giai cấp chia xã hội
thành hai trận tuyến địch/ta, cách mạng/phản động, tiến bộ/lạc hậu, tư sản/vô sản,
nông dân/ địa chủ, cộng sản/quốc dân đảng, duy vật/duy tâm, giai cấp/nhân loại,
tính giai cấp/tính người chung chung, tính giai cấp/chủ nghã nhân đạo tư sản… dẫn
đến phân chia môi trường sinh thái tinh thần làm hai, vạch rõ ranh giới của
chúng, thu hẹp môi trường văn hóa tinh thần vào một nửa. Chức năng văn học cũng
thu hẹp vào chức năng nhận thức, giáo dục, chiến đấu, chức năng thẩm mĩ cũng
thu hẹp vào cái đẹp khỏe khoắn, lạc quan,tin tưởng, chủ nghĩa anh hung, bi
tráng, hùng hồn, các giá trị thẩm mĩ khác bị coi là không thích hợp. Lại thêm hạn
chế vào chủ đề tư tưởng cách mạng, con người mới, phương pháp sáng tác hiện thực
xã hội chủ nghĩa với tính đảng cộng sản, kết quả là văn học cách mạng tuy có
nhiều phẩm chất đáng quý đối với văn học thời chiến, song nó đã tỏ ra công thức,
sơ lược, khó giữ được sức hấp dẫn lâu bền đối với đời sau. Văn học cách mạng thực
chất là văn học tuyên truyền, thực dụng, đáp ứng yêu cầu trước mắt của đấu
tranh chính trị, cho nên, nó không đòi hỏi văn học sang tạo hình thức mới. Trái
lại nó yêu cầu văn học sử dụng các hình thức của văn học dân gian để sang tạo
ra tác phẩm dễ nhiows, dễ thuộc, dễ hiểu đối với đông đảo quàn chúng. Tiếp thu
truyền thống hay tinh hoa văn nghệ nước ngoài, chủ yếu theo nguyên tắc gạn đục
khơi trong, thực chất là lựa chọn những gì nó yêu cầu để thực hiện chức năng
tuyên truyền là chính. Ngay đối với truyền thống chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa
lãng mạn nó cũng chỉ tiếp nhận một số yếu tố hạn chế, không tiếp nhận hết
các truyền thống ưu tú của các trường phái văn học này. Ví dụ, văn học cách mạng
có một thứ chủ nghĩa tâm lí khác với truyền thống tâm lí trong chủ nghĩa hiện
thực. Bởi tiếp thu nhiều hơn, có nguy cơ là thay đổi tính chất của văn học cách
mạng. Văn học cách mạng xây dựng mô hình thế giới giản đơn,dễ hiểu địch/ta,
cách mạng/phản động, chỉ ta là người, còn địch là thú vật, dẫn đến lí tưởng hóa
nhân vật anh hùng, thú vật hóa bên địch, biến chúng thành kẻ mất nhân tính, dâm
đảng, đê hèn, điên khùng. Lí thuyết phản ánh, lí thuyết văn học phục vụ chính
trị, tính đảng càng củng cố them cho định hướng sang tác đó. Phê bình văn học
đánh giá văn học theo các tiêu chí của văn học cách mạng lại càng khẳng định
phương hướng sang tác đó, đấu tranh phê phán các sang tác được coi là lệch lạc,
sai trái, khiến cho văn học tự khép kín trong bản than nóp, giảm sút năng lực tự
nhận thức. Đến cuối cuộc chiến, đặc biệt sau chiến tranh kết thúc, tiếp xúc với
các sang tác văn học khác, một số nhà văn đã kịp nhận ra tình chất giả tạo,
xa rời thức tế của văn học đó, đặt vấn đề về tính chân thực của văn học. Lại
thêm một số cuộc đấu tranh, tranh luận nữa, nhất là khi xã hội rơi vào khủng hoảng,
đòi hỏi đổi mới, nhìn thẳng vào sự thật, đổi mới tư duy, thì người ta mới bắt đầu
nhận ra vấn đề của căn học.
Phương pháp nghiên cứu văn học trong tương tác với môi
trường sinh thái tinh thần xã hội
Phê bình sinh thái tinh thần đòi hỏi xem tinh thần như một
yếu tố quan trọng hang đầu trong toàn bộ hệ thống sinh thái xã hội, trong đó
tinh thần vừa là môi trường nuôi dưỡng mọi sang tạo vật chất và tinh thần, lại
vừa là sản phẩm của chính môi trường văn hóa tinh thần do con người tạo ra.
Trên cơ sở đó rà soát các hệ thống giá trị nội tại của con người, sự xung đột của
các giá trị truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, các giá trị thật và
giả tạo, cao cả và tầm thường, chân thực và hư ảo. Phyuwowng pháp nghiên
cứu chủ yếu là phương pháp xã hội học, phương pháp ghiên cứu văn hóa, kết hợp với
phương pháp nghiên cứu nội tại , bởi vì sinh thái tác động lên chỉnh thể , làm
đổi thay cả chỉnh thể văn học nói chung cũng như chỉnh thể của tác phẩm, thể loại,
phong cách văn học.
TRẦN ĐÌNH SỬ
Nguồn: VHNA
Tài liệu tham khảo:
1.
Hồ Chí Hồng. Nghiên
cứu phê bình sinh thái phương Tây, nxb Khoa học xã hội Trung Quốc, Bắc
Kinh, 2006.
2.
Lỗ Khu
Nguyên. Không gian của phê bình sinh thái. Nxb Đại học sư phạm Hoa
Đông, 2006.
3.
Đinh Hiểu
Nguyên. Báo cáo văn học và sinh thái văn hóa, nxb Tam Liên, Thượng
Hải, 2001.
4.
Hippolyte
Taine, Triết học nghệ thuật, Phó Lôi dịch, nxb Văn nghệ Bắc Kinh,
1963.
5.
Vũ Quang Mạnh. Chủ
biên, Hoàng Duy Chúc. Môi trường và con người – sinh thái học nhân
văn, nxb Đại học sư phạm, Hà Nội, 2011.
6.
Hà Kim Lan. Xã
hooijhocj văn học, nxb Quế quan hữu hạn công ty, Đài Bắc, 1989.
,
_____________________
[2] Hồ Chí Hồng. Nghiên cứu phê bình sinh thái
phương Tây, nxb Khoa học xã hội Trung Quốc, Bắc Kinh, 2006.
[3] Vương Nhạc
Xuyên. Văn học sinh thái và phê bình văn học sinh thái. Học báo Đại
học Bắc Kinh, số 2, năm 2009.
[4] Lỗ Khu
Nguyên. Không gian phê bình sinh thái, Đại học sư phạm Hoia Đông xuất
bản, 2006.
[5] Teilhar
de Chardin. Hiện tượng con người, nxb Tri thức, Hà Nội, 2014.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét