Linh mục Lương Kim Định
Ông sinh ngày
15-6-1915 (có tài liệu nói năm 1914), tại Trung thành, Hải Hậu, Nam Định. Ông
đi tu và được phong linh mục năm 1943. Ông học Triết tại Giáo hoàng học viện
Alber le Grand, sau đó về dạy Triết tại Đại chủng viện Quần Phương. Năm 1947,
được gửi đi học ở Học viện Công Giáo Paris (Institus de Paris) và Học viện Cao
học Trung Hoa Paris (Institut des Hautes Etudes Chinoises, Paris). Năm 1958 về
nước là Giáo sư Triết học Đông phương tại Học viện Bảo Tịnh, Đại học Văn khoa Sài Gòn, Viện đại học
Vạn Hạnh… Ông cùng vài giáo sư khác
như Nguyễn Văn Thích, Nguyễn Đăng Thục sáng lập ra khoa Triết học phương Đông ở
Đại học Văn khoa Sài Gòn năm 1958. Sau 30-4-1975, ông qua Hoa Kỳ rồi mất
ngày 25-3-1997 trong đau yếu, bệnh tật. Ông để lại 45 tác phẩm (không kể một số
tác phẩm thất lạc) và gây ra tranh cãi cho nhiều người cho đến tận hôm nay. Nhưng dù thế nào cũng phải
công nhận ông là triết gia lớn của Việt Nam của thế kỷ XX, tràn đầy tinh thần
dân tộc mà như GS Trần Văn Đoàn (Đài Loan) nhận xét trong cuộc hội thảo ngày
18-1-1997: “Kim Định vượt xa Trần Đức Thảo trong lĩnh vực suy tư và trong tinh
thần ái quốc cũng như sự nhiệt tâm của kẻ sỹ”. Sách báo ở Việt Nam hiện nay chỉ
ghi nhận GS Trần Đức Thảo là triết gia duy nhất. Như vậy là chưa đủ và làm
nghèo triết học Việt Nam.
1- Lương Kim Định là triết gia lớn
Ông không chỉ
là một trong những người sáng lập ra khoa Triết học Phương Đông ở Đại học Văn
khoa Sài Gòn mà còn là người
để lại nhiều tác phẩm triết học sâu sắc. Trong đó, tác phẩm đầu tiên ra đời năm
1965 là cuốn “Nhân bản”, ông đã phác thảo nên một ngành triết học mới.
Đó là Triết Việt hay Việt Nho hay An Vi. Ông viết:
“An Vi tương
đương với an hành. Vô vi sẽ là đối cực với hữu vi. Nói An Vi chính là quân bình
đang đứng giữa hữu vi và vô vi. Còn nói chung vì nó là đợt trung dung: hữu nhược
vi, thực nhược hư (có mà như không,
thực mà như giả). Phải tế vi lắm mới đạt được cái rất mỏng manh nhỏ bé và vô ý
một chút là ngả sang hữu hoặc vô” (1).
Ông chỉ ra đặc điểm của Triết Việt, liên quan trực tiếp đến
nền văn hóa phương Đông:
“Triết Việt cũng đã vươn lên đến đợt tâm linh nên đã đi từ thơ ca, vũ nhạc đến minh triết,
không duy lý hay duy tình nhưng tình
lý bao lấy nhau. Dẫu bên ngoài của sứ vụ đó theo như tục lệ ông bà vươn lên lễ gia tiên. Dù Thượng Đế nhân
hành vươn lên Hạn Thiên “vô thành vô xứ”. Chỗ nào cũng suy ra nét song trùng dọc
với ngang, trên với dưới, nhờ vậy tránh được nạn duy lý để trở nên nền
triết lý nhân sinh toàn diện. Đó là nhân chủ, tức con người, không bị tước đoạt mà còn giữ được,
còn làm chủ được mệnh hệ của mình” (2).
Trước đây, nhiều
người tin rằng triết học chỉ có ở phương Tây, còn phương Đông cùng lắm chỉ có triết lý. Lương Kim Định cũng cho rằng, Đông phương
thiên về minh triết và triết lý, còn Tây phương thiên về triết học. Trong cuốn “Những dị biệt
giữa hai nền triết lý Đông Tây”, ông đã chứng minh khá rõ những điều
khác biệt giữa Đông và Tây nhưng đã
khẳng định phương Đông trong đó có Việt Nam có một nền triết học sâu sắc, biết
vượt lên những hạn chế của triết học Tây phương, một nền triết học vĩ đại nhưng theo ông là một chiều hoặc duy tâm hoặc
duy vật:
“Nói vắn tắt
thì từ ông tổ triết học Tây Âu cho đến nay chỉ có thứ triết học một chiều
thôi. Tuy cũng có những trường hợp ngoại lệ, nhưng nó chỉ như cánh nhạn lẻ loi
giữa tiết đông tuyết lạnh, không làm nên được mùa xuân với muôn hoa sắc vì
không được chính quyền công nhận nên đời sống xã hội vẫn nằm bẹp dưới đất như chính triết học… Thế nghĩa là văn
minh Tây Âu có rực rỡ huy hoàng đến đâu, cũng mới là cái ngai vàng của Oedipe
không mang lại hạnh phúc trường tồn, còn làm thui chột con mắt thứ ba,
chính là tuệ nhãn nên chỉ nhìn thấy nhị kháng mà không thấy ra chỗ hòa, đành chọn
một bỏ một, thành ra đủ thứ duy, mà đã duy kiểu này hay duy kiểu khác đều quanh
quẩn từ 1 sang 4 và từ 4 về 1 hoài mà không tìm ra đàng thứ 3. Ôi triệt tam,
triệt tam”(3).
Logic của Aristos dứt khoát khẳng định hoặc có hoặc không
chứ không có dạng vừa có vừa không, tức là triệt tam. Triết học phương Tây cũng rất sâu sắc khi bàn về quan
hệ của các sự vật, hiện tượng trong không gian, thời gian nhưng rất ít quan tâm
đến con người. Lương Kim Định cho rằng, triết học phải lấy con người làm trung
tâm. Ông viết:
“Muốn hiểu biết
về con người, cần phải biết địa vị của con người trong trời đất, trong vũ trụ
hay nói theo triết học là trong không gian. Nhận thấy cơ cấu Thời – Không đang
sụp đổ, tác giả đi gõ cửa những nhà khoa học lớn như Enstein với thuyết tương đối trong không gian,
thời gian như chiều kích thứ tư của vạn vật, rồi đi gõ cửa các triết gia
hiện đại nhất như Heidegger, tác giả cuốn “ Hữu thể và thể giác”. Sau đó trở lại
với Đông phương, khảo sát quan niệm chữ Thời trong Kinh Dịch, Kinh Thi, chúng
ta sẽ có được sự thích thú khi nhận ra sự gặp gỡ Tây Đông trên bậc tối thượng. Chúng ta khám phá ra những ý
tưởng sâu thẳm tiềm ẩn trong Tam
tài, Ngũ hành, Hồng nhạn, Thái thất…Với nền triết lý của lịch pháp phương Đông, đặt nền trên huyền sử, cung cấp
cho chúng ta chìa khóa để mở kho tàng bí ẩn của nền văn hóa nước nhà nhằm
xây đắp một nền triết lý Việt Nam mới hợp với cảm quan của con người thời đại” (4).
Vì vậy, Lương
Kim Định chủ trương xây dựng một thứ đạo đó là “Đạo Nhân”, đạo của con người.
Xưa nay, các lý thuyết triết học chia ra ba loại: lấy Thượng đế làm chủ gọi là Thiên chủ. Có loại lấy vũ
trụ vạn vật là chủ gọi là vật chủ. Còn ông, lấy con người là chủ nên gọi là nhân chủ. Ông đưa ra câu ca
dao: “Có trời mà cũng có ta/ Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” để khẳng
định, người Việt đã biểu thị ý thức nhân chủ từ lâu rồi. Tư duy đó mềm dẻo:
“Sự vật có là
có, không là không nhưng với con người thì là uyển chuyển, có mà không,
không mà vẫn có. Nói theo huyền số thì đó là con số 3. Tất cả túi khôn Đông
phương nằm trong số 3 đó… Để thấy rõ sự uyển chuyển của cơ chế này cần đối chiếu với cơ chế Tây Âu đi theo
lối 2 là 2 mà cụ thể là tư sản với quyền tuyệt đối nên chỉ có nhị đối kháng là
tư sản với vô sản. Đó là đầu mối gây tai họa trầm trọng cho đến ngày nay giữa
tư bản và vô sản… Chính sự bám víu nọ gây ra nạn vô sản tức cảnh huống những người không có
tài sản. Đã không có tài sản tất trở nên nô lệ. Thế là trong xã hội phân
ra có chủ nô, có giai cấp tiếp đến là có giai cấp đấu tranh liên tục. Trái lại
Việt xưa theo lối vào uyển chuyển
nên không theo tư bản hay vô sản mà theo lối bình sản tức là đứng giữa
tư bản và vô sản, uyển chuyển giữa có với không” (5).
Số 3, chính là triết lý An Vi mà ông khởi xướng và có hàng trăm nhóm An Vi sau này đã
thành lập theo tư tưởng của ông xuất
hiện ở nhiều nước như Hoa Kỳ, Anh, Úc, Pháp… Ông viết:
“Một trời, hai
đất, ba người”. Ba người là một nét đặc trưng cho triết lý An Vi, coi người như một tài ngang với trời, đất nên còn gọi là “tham thông”, cả
ba cùng tham dự. Nếu trời làm thì đất làm và con người cũng làm. Có làm mới tham thông, mới là một tài
trong ba tài. Con người khác con vật ở chỗ tham dự, cùng làm đó nên còn
gọi là nhân chủ. Con người làm chủ sự
vật. Không giữ được điều đó thì là vật chủ tức con người để cho sự vật sai khiến. Ví dụ coi tiền tài sản
vật cao hơn mình, hơn người,
hơn những mối nhân luân. Đó là vật chủ. Còn tin tưởng vào số mệnh, định mệnh, con người không còn
giữ lại cho mình quan hệ nào để có thể sửa phận mình. Đấy gọi là thiên chủ, thần
chủ” (6).
Ông vẫn quan niệm triết học là một khoa học hiểu biết chắc
chắn, nguyên nhân sâu xa về sự vật hiện tượng nhưng triết Tây hiểu thế giới nhưng quên biến cải con người, triết Ấn
Độ thì trốn đời tìm nơi cực lạc.
Để khắc phục những thiếu sót của các lý thuyết triết học trên thế giới,
cả Đông lẫn Tây, theo Lương Kim Định là phải từ bỏ triết học một chiều, tiếp nhận
triết học hai chiều, phải kết hợp cả vật chất lẫn tinh thần, đặc biệt triết Việt
phải có chiều kích tâm linh. Ông khẳng định:
“Karl Marx chê ông Hegel là đi ngược: đầu ở dưới đất, hai
chân giơ lên trên nên chữa lại cho biện chứng đi hai chân lên đất thành ra duy
vật biện chứng. Mao Trạch Đông đã triển khai cuộc cách mạng của ông bằng quyển
“Mâu thuẫn luận” theo đúng tinh thần của Hegel và Marx. Đó là đối kháng, thiếu
vòng sinh… Phương Tây đã đánh
mất nét song trùng mà Heidegger gọi là đánh mất nét gấp đôi (two foldness), nên
dùng làm túi, đồng hóa người với vật, biến người thành công cụ sản xuất, không
thấy con người là vật linh thiêng nữa.
Đánh mất nét song trùng rồi còn thấy sao được chiều kích tâm linh. Chỉ
nhìn bằng con mắt duy vật thì tất nhiên con người xuất hiện như những con vật và Nhà nước tha hồ quản lý mặt hàng”(7).
Lương Kim Định
cho rằng, chính số 3 làm nên sự khác biệt của Triết Việt. Từ trong các truyện
thần thoại, dã sử cho đến các hiện vật văn hóa của Việt Nam như cái
đình, trống đồng, cúng gia tiên… đều thấm đẫm con số 3 huyền thoại đó. Ông viết:
“Số 3 chỉ nhân chủ là người tự làm lấy vận mệnh của mình, không quá suy phục trời như duy tâm, cũng không quá phục tùng đất
như duy vật mà cư xử như một chủ trong ba chủ, một tài trong ba tài: trời, đất,
người. Nhờ đó con người có thêm tự do hay làm cho con người biết liên đới vô
cùng mà không bị vong thân đặt tiền tài trên con người. Trái lại, con người là
nhân chủ luôn biết trọng nhân nghĩa hơn tiền tài. Lập trường này bao hàm: một
là có, hai là không và ba là vừa có vừa không một trật” (8).
Nói về triết
gia Lương Kim Định sẽ có nhiều ý kiến tranh biện. Đây là cơ hội rất tốt, để những quan niệm của ông có dịp
được đào sâu. Nói như GS Nguyễn Ngọc Bích ở Đại học Georgetown, Hoa Kỳ sẽ công
bằng hơn:
“Nếu có ai hỏi
tôi rằng, có nên đọc (Lương Kim Định) hay không thì tôi xin thưa ngay, dứt khoát là có. Tại sao, tại vì
nếu ta không nhất thiết phải đồng ý với hết cả ý kiến của ông, ta cũng sẽ được
làm thân với những bộ óc triết lý lớn nhất nếu không của nhân loại thì cũng là
của Việt Nam. Tôi nói điều này trong sự cân nhắc cũng không khác gì tôi sẽ trả
lời cho câu hỏi: có nên đọc Platon hay Aristos không? Đã nhất thiết gì chúng ta
đồng ý với Platon trong tác phẩm Le
Republique, nhưng ai không đọc tác phẩm đó chắc chắn sẽ mất đi một mảng hiểu
biết rộng lớn về triết học phương Tây. Cũng như không đọc Kim Định cũng không
sao, ông sẽ từ tốn mà an vi nhưng một
ngày kia, người ta sẽ tỉnh mộng nhìn thấy cái mất mát to lớn của mình” (9).
2- Một triết gia đầy
tinh thần dân tộc
Đọc các tác phẩm của Lương Kim Định thấy đa số đều xuất
phát từ hiện thực của Việt Nam. Từ những câu ca dao, chuyện truyền thuyết, thần
thoại trong kho tàng cổ tích Việt. Từ chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh đến chuyện Nữ Oa vá trời, chuyện Quả dưa hấu… Từ chuyện của người
Kinh đến chuyện của các dân tộc thiểu số như Đẻ trứng, đẻ nước, Dam Dông, sông
Ba… Chuyện nào ông cũng nhìn thấy triết lý sâu sắc của ông cha gửi gắm lại.
Theo ông:
“Huyền thoại chính là tự truyện của một dân tộc bao hàm
những kinh nghiệm tích lũy từ trong sản xuất, lao động tiên tổ kết tinh lại.
Xuyên qua đó thường được kể lại bằng những nét lung linh cái sứ mệnh của dân tộc
nên đó quả là những di bảo thiêng liêng chứa chấp những miền tinh thần của tiềm
thức” (10).
Chỉ một đoạn đồng dao: “Phụ đồng phụ chổi/ Thổi lổi mà
lên. Ba bề bốn bên/ Soi lên cho chóng…” là ông đã nhìn thấy cái ẩn ý triết lý
sâu sắc của cha ông về hồ Ba Bể, nguyên lý Tam tài, nguyên lý Mẹ… những tinh
hoa của triết lý Việt:
“Việt Nam đã có triết lý. Không những thế, nó có cả triết
lý bình dân và nó đặc biệt ở chỗ nó không khác triết học bác học về nội dung mà
chỉ khác về trình độ và ngôn ngữ. Đấy là nét đặc trưng… Bác học hay bình dân
cũng thế cả chỉ khác nhau về sự trình bày để thích nghi với trình độ học thức
mà thôi” (11).
Suy tư bất cứ
hiện vật văn hóa nào, ông cũng nhận ra cái hồn của người Việt. Chẳng hạn biểu
tượng của nước Pháp là con gà, Ấn Độ là con voi, Đức là chim ưng, Anh là sư tử.
Trung Quốc trước là hổ sau là rồng. Chỉ có Việt Nam là nhận cả đôi là tiên, rồng.
Người Việt cũng thích nói kép: đình đám, học hành, cưới xin. Trung Quốc chỉ có đơn âm… Về cái đình
làng, ông viết:
“Cái đình có thể coi là đỉnh chót vót của nền văn minh Việt.
Nền văn minh này đặt trên nền tảng gia đình, nhiều gia đình họp thành khu, xóm,
ấp và đặt đến cùng là làng. Nhà của làng là đình. Đấy là nền văn hóa xây trên đất
tha nhân, trời hòa, đất hòa. Nói cụ thể là hòa đạo với đời, hòa siêu nhiên với
tự nhiên” (12).
Ông trăn trở về tình yêu nước nhạt phai trong một số người nhất là lớp trẻ. Chỉ ra nhiều hiện tượng
đáng buồn nhưng không phải là quy tội, bắt bẻ trách nhiệm của ai mà mục đích là
thức tỉnh người Việt trong cũng như ngoài nước để “gọi hồn nước về”. Cái hồn đó
siêu việt không hiện hữu nhưng cũng chẳng phải vô hình như gió thổi vô hình nhưng làm lay động cây cối và người ta lại rất dễ nhận
ra đặc trưng của nước Việt:
“Thực trạng tình
huống nước ta mấy chục năm qua. Cũng
có đủ cả việc cướp nước, bán nước và bán hồn nước. Vì có một số người vào hùa với ngoại bang làm giàu trên
xương máu đồng bào và đau thương của dân tộc. Cũng từ đấy xảy ra việc nhiều người
xem vào gương tiên tổ thì chẳng còn thấy bóng dáng của mình đâu nữa. Thấy
sao được vì đã bị ngoại bang lấy đi rồi và hồn cũng có phải là vật cụ thể hiện
ra thù lù trước mắt đâu, nhưng là
cái siêu linh như ẩn như hiện, có mà không, không mà có. Nếu tấm lòng
yêu nước thương nòi đã phai
nhạt thì xem vào tấm gương mới mẻ là
cái nước chậm tiến, lạc hậu này thấy sao được hồn nước. Nếu nước Việt không có
hồn, dân tộc Lạc Việt không có tính chất đặc trưng” (13).
Khi đã
định cư tại Hoa Kỳ nhưng ông vẫn canh cánh tấm lòng với nước. Năm 1989, ông thành lập hội Việt Linh chủ
trương dạy tiếng Việt cho lớp trẻ con cái người Việt sinh ra ở Hoa Kỳ. Ông cũng
kêu gọi thành lập các ban nghiên cứu các lĩnh vực, quy tụ những nhà khoa học
người gốc Việt làm việc với nhau để có thể giúp cho trong nước những lĩnh vực còn
yếu nhất là về khoa học kỹ thuật. Ông cũng quan tâm nhiều đến giáo dục nước nhà
để làm sao tạo ra những thế hệ vừa thành nhân vừa thành công.
Ông cũng đưa ra nhiều tiên đoán như đến năm 4047 thì sự
khác biệt Tây Đông sẽ không còn nữa mà cả nhân loại là khối thống nhất và đến
năm 5047 người ta không còn chú trọng vào vấn đề kinh tế, chính trị khoa học kỹ
thuật nhiều nữa mà chú trọng vào lĩnh vực tinh thần nhất là tôn giáo. Trên tinh
thần dân tộc, ông đưa ra hai giả thuyết khoa học làm đảo lộn những nếp nghĩ lâu
nay đã hằn sâu vào nếp nghĩ của nhiều người trong đó có cả giới nghiên cứu. Ông cho rằng, cả chữ Nho lẫn đạo Nho đều
do người Việt đặt ra trước rồi người Tàu mới công thức hóa lại sau nghĩa là làm
cho chau chuốt, nuột là hơn. Vì thế Nho là của chung Tàu Việt và ông gọi
là Việt Nho:
“Một là Bách Việt làm chủ khu vực nước Tàu trước người Tàu. Hai là người Bách Việt chủ
xướng ra Nho giáo, người Tàu chỉ làm cho hoàn bị cũng như làm cho sa đọa ra Hán
Nho… Triết học của Nho giáo chính là của Việt giáo hay nói cách khác Nho là Việt,
Việt là Nho và vấn đề khẩn thiết lúc này phải tìm ra phương cách khai quật lên cho bằng được đạo lý
của Việt Nho. Nhất là phần cơ cấu của
Việt Nho đã bị Hán Nho vùi dập. Âm dương, ngũ hành bị biến cách tới độ phù phép, còn Tam tài thì không
ai nhận ra ý sâu xa của nó nữa” (14).
Khoa lịch sử khảo cổ học cũng như di truyền học ngày nay với những phát hiện mới
đang chứng minh những giả thuyết của Lương Kim Định hoàn toàn không phải là
hoang đường.
Có những phê
phán của Lương Kim Định với triết học Mác hay Chủ nghĩa xã hội gây nghi
ngại trước đây, bây giờ chính những
người nghiên cứu triết học Mác xít cũng gạt bỏ nó như vấn đề mâu thuẫn đối lập,
chuyên chính vô sản... Cho nên đã đến lúc cần đặt ra là tái bản các tác
phẩm của Lương Kim Định và nghiên cứu
về ông nhất là cho giới triết học và văn hóa, giáo dục.
Hà Nội, nhân 20 năm mất của Lương Kim Định
(1997-2017)
PHẠM HUY THÔNG
Chú thích:
1- Định hướng văn học, Ra khơi Nhân ái xuất bản, Sài Gòn 1969, tr.83-84.
2- Pho tượng đẹp nhất của Việt tộc,
vietnamvanhien.net, tr.7
3- Kinh Hùng Khải Triết, vietnamvanhien.net, tr.13
4- Bìa 3 cuốn “Chữ Thời”, Ấn quán
Thanh bình, Sài Gòn 1967
5- Kinh Hùng Khải Triết,
Thanh niên QG, USA xuất bản 1989, s đ d, tr.15
6- Kinh Hùng Khải Triết, s
đ d, tr. 42
7- Kinh Hùng Khải Triết, s
đ d, tr. 6
8- Cẩm nang Triết Việt, s đ
d, tr. 18
9- Báo Ngày nay số 121 ở
Texas năm 1998.
10- Lời Phi lộ cuốn Kinh
Hùng Khải Triết, s đ d
11- Triết lý cái đình, Nxb
Hội nhà văn in lại bản 1971, Tp HCM 2016, tr.13
12- Triết lý cái đình, s đ
d, tr.29-31
13- Hồn nước với lễ gia
tiên, Nam Cung xuất bản 1979, http//tieulun.hopto.org, tr.2
14- Nguồn gốc văn hóa Việt
Nam, Nguồn Sáng xuất bản, Sài Gòn 1973, tr.6
Nguồn:
Vietcatholic.net/ VHNA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét