Thứ Năm, 28 tháng 3, 2019

VŨ HOÀNG CHƯƠNG THẤU THỊ LẼ VÔ THƯỜNG

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương sinh năm 1916, quê gốc Nam Định. Lớn lên ở Hà Nội,  đỗ tú tài 1937, Nho học, Tây học đều thông suốt, học Luật khoa nửa chừng rồi bỏ. Có một thời làm kiểm soát sở Hỏa xa Đông Dương rồi cũng bỏ, đi dạy học ở Thái Bình, Hải Phòng. Sống phóng khoáng giang hồ lãng tử. Từ năm 1940 mới 24 tuổi đã xuất bản tác phẩm đầu tay Thơ say, gây hào hứng bừng dậy một làn gió mới trong giới văn nghệ sĩ Hà thành lúc bấy giờ. Sau đó lần lược ấn hành những tập thơ Mây (1943) Trương Chi (1944) Thơ lửa (1947) Thằng Cuội (1952).
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương

Đến năm 1954 Vũ Hoàng Chương rời bỏ Hà Nội, lên đường di cư vào Sài Gòn, tiếp tục nghề dạy học và tất nhiên là viết văn làm thơ. Hòa nhập nhanh chóng vào sinh hoạt văn nghệ miền Nam, ngay cuối năm 1954 đã cho ra mắt liền thi phẩm Rừng phong tại Sài Gòn. Năm 1959 tập thơ Hoa đăng đoạt giải nhất về thi ca. Cũng năm này, thi sĩ sang Bỉ dự hội nghị Thi ca Quốc tế, rồi sang Thái Lan dự Văn bút Á Châu (1964) qua Nam Tư dự Văn bút Quốc tế (1965). Từ năm 1969 đến 1973 Chủ tịch Trung tâm Văn bút Việt Nam.

Ở Sài Gòn, Vũ Hoàng Chương có Gác Mây là nơi lui tới của anh em văn nghệ bốn phương. Được thở bầu không khí tự do trên mảnh đất mới, khơi dậy hồn thơ bẩm sinh vốn đa tình đa cảm, thi sĩ như nhập vào suối nguồn sáng tạo trào tuôn lai láng nên nhiều thi phẩm tâm đắc ra đời như Tâm sự kẻ sang Tần (1961) Cảm thông (1961) Trời một phương (1962) Lửa Từ bi ( 1963 ) Ánh trăng Đạo lý (1966) Bút nở hoa đàm (1967) Cành mai trắng mộng (1968) Ta đợi em từ ba mươi năm (1970) Ngồi quán (1971) Đời vắng em rồi say với ai? (1971) Chúng ta mất hết chỉ còn nhau (1973) và Ta đã làm chi đời ta? (1974).

Ta đã làm chi đời ta? Là một tập hồi ký, nhà thơ kể lại chuỗi ngày tháng lang thang lêu lổng với giới văn nghệ sĩ, những cuộc ngao du phiêu bồng đây đó thời thanh xuân tuổi trẻ trước 1954 ở miền Bắc.

Vũ Hoàng Chương là một thi sĩ vĩ đại của văn học Việt Nam, một nhà thơ trữ tình lãng mạn, chứa chan cả trời thơ đất mộng lung linh. Tình thơ chất ngất bay cao vút tận đỉnh trời lồng lộng, ý thơ nồng nàn tha thiết, cháy bỏng bao nỗi niềm rung ngân bất tuyệt những tiếng lòng vọng lên từ sâu thẳm tâm tư.

Từ tính chất ưa tự do phóng đãng, thích phiêu lãng tang bồng, thi sĩ bỏ xứ ra đi làm một gã phong trần với túi thơ bầu rượu ngất ngưởng nghêu ngao. Thời tiền chiến ở miền Bắc, hình như phủ trùm lên một bầu khí hậu u buồn thảm đạm sao đó, khiến cho hầu hết giới thanh niên trẻ tuổi đều mang tâm trạng lạc lõng bơ vơ, đi mà chẳng biết đi về đâu giữa biển đời lênh đênh không bờ bến:

Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng
Xuôi về Đông hay dạt tới phương Đoài
Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng
Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi trơ vơ
Đời kiêu bạt không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ
Men đã ngấm bọn ta chờ nắng tắt
Treo buồm cao cùng cất tiếng hò khoan
Gió đã thổi nhịp trăng chiều hiu hắt
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy cho ngoan

Thuyền viễn xứ chèo qua dòng Suối mơ huyền ảo Văn Cao hay Con thuyền không bến bềnh bồng theo Đặng Thế Phong là những cuộc lữ long đong của cả một thế hệ bơ vơ, ngơ ngác chẳng biết về đâu giữa ngã ba đường. Đó là buổi giao thời xung đột giữa cái cũ và mới, giữa Đông và Tây, giữa Cộng sản và Tư bản. Cùng thời với Vũ Hoàng Chương có Quang Dũng, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Tô Hoài, Thế Lữ… Hầu như trước sự bế tắt tâm tư thời đại, tất cả những tâm hồn nhạy cảm ấy đều tìm đến men rượu say tình cho nguôi ngoai đi nỗi sầu thế sự, Vũ Hoàng Chương cũng đắm chìm trong hương vị túy lúy cuồng ca quá đỗi trằn trọc, quằn quại thê lương:

Trăng của nhà ai trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
Ồ ! Đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi ! Hỡi nhớ thương
Là thế là thôi là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành
Mười năm trăng cũ ai nguyền ước
Tố của Hoàng ơi ! Tố của anh
Tháng sáu mười hai từ đấy nhé !
Chung đôi từ đấy nhé lìa đôi
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa Tố của tôi
Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu ghi mười hai
Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của ai ?
Tay gõ vào bia mười ngón dập
Mười năm theo máu hận trào rơi
Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ bồn ca gõ hát chơi :
Kiều Thu hề Tố em ơi !
Ta đang lửa đốt tơi bời Mái Tây
Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hồ xừ xang xế… bàn tay điên cuồng
Kiều Thu hề trọn kiếp thương
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô
Xừ xang xế xự xang hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên
Kiều Thu hề Tố hỡi em
Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bừng
Xế hồ xang… khói mờ rung
Nhịp vương sầu tỏa năm cung ngút ngàn

Mang mang thiên địa sầu là một mối sầu thương khủng khiếp đoạn trường. Phải chăng đó là điều thường xảy ra trong những cuộc tình du dương thắm thiết của tài tử giai nhân ? Những cuộc tình si đầy chất tương tư ủy mị, vì có thể làm cho người ta đi đến chỗ điên cuồng, tuyệt lộ, tự tử nếu không có một lối thoát nào đó mở ra. Ở đây nhà thơ bế tắt chẳng biết ngõ thoát nào hơn là say và say đắm đuối cho quên hết nỗi niềm :

Say đi em ! Say đi em !
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng điên rồ xác thịt
Rượu rượu nữa và quên quên hết
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi dần rơi
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Nhưng em ơi !
Đất trời nghiêng ngả
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngả
Thành Sầu không sụp đổ em ơi !

Bức tường thành vách sương mù u mê ám chường đầy rêu phủ u sầu kia tuy vô hình mà dữ dội kinh hồn, khiến cho người ta bị vây khổn, ngột ngạt trong lùng bùng khủng hoảng, run rẩy sợ hãi, hụt hẩng chới với bởi những trận gió từ sa mạc hư vô thổi đến một cách bất ngờ, không sao lường trước được. Trước bao nhiêu sự việc biển dâu, nhà thơ đều im lặng chấp nhận nhưng không thể bình thản, an tâm được khi tình yêu tha thiết đột nhiên chấm dứt nửa chừng. Chao ơi ! Không biết vì sao cứ bàng hoàng, thảng thốt, hỡi thuyền quyên thực nữ, hỡi thiên hương quốc sắc lặng lẽ qua cầu. Rưng rưng tiễn biệt mà đau xót lòng :

Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu
Lênh đênh thương nhớ dạt trời Âu
Thôi rồi tay nắm tay lần cuối
Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau
Trai lỡ phong vân gái lỡ tình
Này đêm tri ngộ xót điêu linh
Niềm quê sực thức niềm quan ải
Giây lát dừng chân cuộc viễn trình
Tóc xỏa tơ vàng nệm gối nhung
Đây chiều hương ngát lá hoa dung
Sánh đôi kề ngọn đèn hư ảo
Mơ kiếp nào xa đã vợ chồng
Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay
Buồn mưa trăng lạnh nắng hoa gầy
Nắng mưa đã trải tình nhân thế
Lưu lạc sầu chung một hướng say
Gặp gỡ chừng như truyện Liêu trai
Ra đi chẳng biết một ngày mai
Em ơi ! Lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai ?

Còn ai đâu mà bốc cháy, say sưa nữa, khi em là người yêu, người tình, nàng thơ diễm tuyệt, là tri âm tri kỷ, chí cốt ruột rà nhất đã dứt áo ra đi. Đi là đi mất đi biệt như đóa hoa vô thường rơi tàn tạ hương sắc mong manh xuống vườn hồn tả tơi bao xác lá. Nhà thơ lãng mạn Vũ Hoàng Chương đã trọn vẹn quăng ném hết tâm tình mình vào cuộc mộng tình yêu kiều diễm, từng nốc cạn bầu rượu tình ái đến ly cuối mặn nồng bốc lửa hoan say chuếnh choáng, chàng rộn ràng dấn bước nhập cuộc để khai triển, khám phá hết những mối ưu tư thầm kín, những tình cảm nhiệt liệt thấm thía trong tận đáy lòng sâu thẳm tâm linh.

Tình và tâm cùng hòa âm thâm cảm, giao hòa thấu suốt muôn chiều tim máu sâu xa nên đã va chạm đến thần hồn vi diệu tuyệt trần Phật giáo. Thật vậy, thi ca Vũ Hoàng Chương đã tìm được một lối thoát ngoạn mục, đã phiêu nhiên bay vào phương trời bát ngát Tâm Thiền uyên áo, đóng góp một phần rất lớn vào văn học Phật giáo Việt Nam qua ba thi phẩm sáng ngời Lửa Từ bi, Ánh trăng Đạo lý và Bút nở hoa đàm đậm đà bản sắc nhân văn. Trăng lòng uyên nguyên hiển lộ, long lanh lấp lánh vô ngần:

Phật có bàn tay dẹp bất bình
Cả ngàn con mắt chiếu vô minh
Chỉ đôi tai Phật sao nghe xiết
Tiếng khóc giờ đây của chúng sinh?

Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển đại dương là một cách diễn đạt sự thống khổ của nhân gian là vô số khổ lụy đoạn trường. Vậy bằng phép lạ nhiệm mầu nào, Đức Phật có thể ra tay cứu độ hết tất cả mọi khổ đau, trầm thống điêu linh của nhân loại được đây, hay phải tự mình chuyển hóa, thăng hoa theo thể lệ “Tự mình thắp đuốc lên mà đi ?”

Lặng lẽ âm thầm, thi sĩ sớm bắt gặp Phật giáo Thiền tông và lãnh hội được tinh túy của Thiền, cho nên hồn thơ đã chuyển sang hướng giải thoát, phong quang sáng tạo chứ không còn chìm đắm trong men say rượu, say tình như thời tiền chiến thuở xưa nữa. Cái thời buồn nôn, hư vô, chán chường ấy đã xa như tiền kiếp, thi sĩ hồi sinh lại giữa ánh hào quang Tuệ giác siêu việt của Hoa Nghiêm, Kim Cang, Bát Nhã quá độ vô cùng vô tận, rạt rào vô lượng vô biên.

Tuyệt vời làm sao, khi thi sĩ nhập định, cất lên tiếng Nguyện cầu, lời đại nguyện âm thầm thâm thiết, chuyển hóa thế giới nội tâm, thể hiện một bước nhảy đáo bỉ ngạn sang bên kia bờ. Mở đầu bài thơ, thi sĩ nêu ra một nghi vấn, một câu hỏi trọng đại trước lý vô thường, trước lẽ sinh tử luân hồi của kiếp người giữa vũ trụ mênh mông :

Ta còn để lại gì không ?
Kìa non đá lở nọ sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về

Ta là ai ? Ta là kẻ nào trong cuộc lữ trăm năm ? Phải chăng ta là một con người sinh ra lớn lên giữa cuộc đời : Làm việc, đấu tranh, dành dụm, tích trữ vật chất và tinh thần, rồi cuối cùng tử thần vụt đến dẫn ta đi vào hố thẳm u linh, kinh hoàng nơi cõi chết mịt mù tăm tối ? Chết là chấm dứt hết tất cả mọi sự hay sao ? Thi nhân sững sờ tự hỏi : “Ta còn để lại gì không ?” Khi mà “Kìa non đá lở nọ sông cát bồi”. Chới với trước vạn vật đổi thay, đất trời thiên diễn, vô thường như thế, nhà thơ  sực thấy mình từ đời thuở nào đã xoay chuyển mãi trong vòng luân hồi sinh tử u minh, mù mù phía trước, mịt mịt phía sau, làm kẻ phong trần khách, lang thang như gã cùng tử giữa cuộc lữ muôn trùng…  Giữa muôn trùng cuộc lữ phiêu linh, một hôm bất ngờ bỗng sực thấy:

Trông ra bến hoặc bờ mê
Nghìn thu nửa chớp bốn bề một phương
Ta van cát bụi trên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này

Bờ bến nào huyễn hoặc, bến bờ nào vọng mê hỡi cõi hỗn độn phù du phủ đầy hư ảo vô minh ? Khiến cho thi nhân trong giây phút nhập thần, chợt thấy thiên thu trong một ánh chớp và bốn bề mười phương trong một giây phút thực tại bây giờ.

Bây giờ và ở đây, cuộc lữ lại tiếp tục lên đường viễn xứ, nhưng từ đây thi sĩ đã thoáng hiện thấy một cõi đi về cố quận ở bên trong tâm hồn vốn trong xanh thanh tịnh. Đó là cõi quê lòng trong trẻo xanh biếc nguyên sơ, chưa từng vướng mắc, ô nhiễm bụi phù trần, nên thi sĩ chân thành lên tiếng tỏ bày, bộc bạch một cách thiết tha “Ta van cát bụi trên đường. Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.”

Đi trên con đường trần gian cát bụi, thôi thì đủ thứ xanh vàng đỏ trắng, muôn màu nghìn sắc dẫy đầy vẻ hấp dẫn, quyến rũ, lôi cuốn ta vào mê lộ, túy sinh mộng tử mang mang… Nếu không tỉnh thức thì sẽ bị cuốn trôi theo đắm chìm giữa miền điên đảo, nhào lộn tồn sinh bức bách não phiền, không lối thoát. Vì thế, dù dơ bẩn hay trong sạch, dù thiện lành hay xấu ác… thì thi nhân vẫn không muốn vướng bận, không thích dính mắc vào làm chi. Đó chính là bước đi xa lìa mọi đối đãi, vượt ngoài phân biệt đúng sai, phải quấy, hơn thua, được mất… của thế giới nhị nguyên.

Biết thế nên thi sĩ thể hiện một cách sống mãnh liệt viên dung, sống hết mình, trọn vẹn say sưa với ngọn lửa thiêng đang bừng cháy trong hồn. Ngọn lửa thiêng từ cõi tâm bừng sáng chói lòa cả càn khôn vũ trụ, bay lên rực rỡ huy hoàng tận đỉnh trời thiên thanh vĩnh thúy. Với trạng thái xuất thần ấy, lời thơ lãng đãng đi về :

Để ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời
Nói chi thua được với đời
Quản chi những tiếng ma cười đêm thâu

Con người đau khổ vì mãi đấu tranh, giành giật lẫn nhau theo kiểu sống thực dụng, chiếm hữu cái lợi trước mắt, sẵn sàng tàn nhẫn, chà đạp, sát hại người khác để giành lợi lộc về phần mình. Nhà thơ nhạy cảm, trực thấy rõ sự nguy hiểm của cách sống bị điều động bởi tham lam, sân hận và si mê ấy, nên có ý cảnh giác những đầu óc thực dụng, sống như máy móc, chỉ biết tính toán, so đo được mất, hơn thua, giàu nghèo, phải trái… theo kiểu ma quái lật lường, xuôi ngược hồ đồ tráo trở. Đó là loại người rơi vào duy vật chủ nghĩa với quan niệm chết là hết, nên họ chủ trương sống thỏa mãn tham dục, thỏa mãn những nhu cầu vật chất nông cạn mà thôi. “ Nói chi thua được với đời. Quản chi những tiếng ma cười đêm thâu.” Nói chi… quản chi… sá chi… những trò đời ma quỷ, oái oăm, nhà thơ mỉm cười tịch nhiên bất động trong lặng lẽ xa lìa, viễn ly tất cả. Sá gì mà chấp trước, vướng bận nhì nhằng làm chi cho mệt, phải không ?

Trên ngõ về quê quán cũ, chốn hồn tâm xanh biếc sơ nguyên của chính minh, nhà thơ mở rộng lòng ra một cách thành tâm :

Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc ta cầu đấy thôi
Đêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian
Một phen đã nín cung đàn
Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh âm

Luân hồi chấm dứt thì Niết Bàn hiện ra. Niết Bàn chính là cố quận đang hiện hữu giữa trái tim mình, ngay trong lòng thanh tịnh của mình đây thôi. Chỉ cần ta “hồi đầu thị ngạn” thì hoát nhiên triệt ngộ, chứng vào cảnh giới Niết Bàn Diệu Tâm liền lập tức. Điều đó đã có nhiều người từ ngàn xưa đến nay thực hiện được  rồi, như các vị Bồ tát, thiền sư, nghệ sĩ vĩ  đại trên mặt đất.

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương trên con đường trở về cố quận ấy đã từng giáp mặt, chứng kiến biết bao bậc thiền sư, Bồ tát thị hiện giữa cuộc đời, như vào tháng 6 năm 1963 tại Sài Gòn, ngọn lửa thiêng của Bồ tát Quảng Đức bừng cháy lên rực trời trong đêm dài tăm tối vô minh làm sửng sốt, bàng hoàng, đánh thức cơn u mê của chế độ bạo quyền Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, đang tàn bạo cố tình tiêu diệt tín đồ Phật giáo. Ngô Đình Diệm cùng anh em gia đình trị độc tài theo Chúa Trời Thượng Đế, mê muội làm tay sai nô lệ, thừa hành mệnh lệnh từ tòa thánh Vatican đàn áp đẫm máu Phật giáo đồ Việt Nam.

Vô cùng rúng động trước ngọn lửa vô úy đầy tuệ giác sáng ngời của Bồ tát Quảng Đức, thi sĩ xuất thần sáng tạo bài thơ Lửa Từ bi bất hủ, ngọn lửa thiêng ấy sẽ còn cháy mãi đến muôn thuở thiên thu, vạn đại vĩnh hằng:

Lửa ! Lửa cháy ngất Tòa Sen !
Tám chín phương nhục thể trần tâm
Hiện thành Thơ quỳ cả xuống
Hai Vầng Sáng rưng rưng
Đông Tây nhòa lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời mới mọc
Ánh Đạo Vàng phơi phới
Đang bừng lên dâng lên
Ôi ! Đích thực hôm nay Trời có Mặt
Giờ là giờ Hoàng đạo nguy nga
Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt
Nhìn nhau tình huynh đệ bao la
Nam mô Đức Phật Di Đà
Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay ?
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
Người rẽ phăng đêm tối đất dày
Bước ra ngồi nhập định hướng về Tây
Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ
Phật Pháp chẳng rời tay
Sáu ngả luân hồi đâu đó
Mang mang cùng nín thở
Tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh xe quay
Không khí vặn mình theo
Khóc òa lên nổi gió
Người siêu thăng
Giông bão lặng từ đây
Bóng Người vượt chín tầng mây
Nhân gian mát rượi bóng cây Bồ Đề
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc
Lụa hay tre nào khiến bút ai ghi
Chỗ Người ngồi : Một thiên thu tuyệt tác
Trong vô hình sáng chói nết Từ Bi
Rồi đây rồi mai sau còn chi ?
Ngọc đá cũng thành tro
Lụa tre dần mục nát
Với thời gian lê vết máu qua đi
Còn mãi chứ còn Trái Tim Bồ Tát
Gội hào quang xuống tận ngục A tỳ
Ôi ngọn lửa huyền vi
Thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác
Từ cõi vô minh
Hướng về Cực Lạc
Vần điệu của thi nhân chỉ còn là rơm rác
Và chỉ nguyện được là rơm rác
Thơ cháy lên theo với lời kinh
Tụng cho nhân loại hòa bình
Trước sau bền vững tình huynh đệ này
Thổn thức nghe lòng Trái Đất
Mong thành Quả Phúc về cây
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Đồng loại chúng con
Nắm tay nhau tràn nước mắt
Tình thương hiện Tháp Chín Tầng xây

Từ Thơ say đến Lửa Từ bi, Vũ Hoàng Chương đã đi một bước thượng thừa hùng tráng, đầy ngoạn mục phi thường. Hồn thơ ăm ắp hơi thở hiện đại mà vẫn giữ được truyền thống Đông phương trầm mặc. Cung bậc hào hùng từ tiếng thơ ấy bay dậy luồng thanh khí như thắp lên ngọn lửa thơ rực hồng ý niềm uyên tư từ ái:

Ai là người có cánh tay hào kiệt
Trong tương lai một sớm một chiều
Đủ sức hái cành hoa làm bút viết
Những vần Thương Yêu?

Những vần thơ yêu thương cuộc sống đã có biết bao nhiêu người tiếp tục viết và viết mãi trên tờ mây trắng thiên thanh hay giữa dòng đời mênh mông mới lạ. Đó là những tâm hồn thênh thang sáng tạo, những bạn đồng hành cùng thi sĩ như Nhất Hạnh, Bùi Giáng, Đông Hồ, Hoài Khanh, Quách Tấn, Phạm Công Thiện, Phạm Thiên Thư, Trụ Vũ…

Tâm đắc tư tưởng tự tại an nhiên, tinh thần giải thoát sinh tử của Thiền, thi sĩ tài hoa Vũ Hoàng Chương đã sống một cuộc đời tỉnh thức và siêu thức giữa bao la pháp giới, chập chùng vũ trụ vần xoay:

Bao nhiêu hạt cát bến sông này
Đã bấy nhiêu ngàn thế kỷ nay
Ta vượt ngàn năm đường ánh sáng
Từ ngoài vô tận đến nơi đây
Đêm đêm ta dõi mấy từng cao
Tìm một không gian mới lạ nào
Lấp lánh Quê Trời thơ hẹn bến
Giam mình Quả Đất mãi hay sao ?
Nhân loại ra đi chẳng một lần
Hợp tan nào khác mảnh phù vân
Trên đà tốc độ siêu quang ấy
Một chuyến đăng trình một hóa thân

Khi thấu thị được lẽ huyền vi sâu xa đó thì thi nhân đâu còn lo sợ chi những chuyện vô thường dâu bể nữa phải không ? Thôi thì chút cơ thể cát bụi phù du đã hóa thân giữa trùng trùng bụi cát, rồi một mai hội đủ nhân duyên mà tựu thành một sinh thể khác hoàn toàn mới mẻ, tinh khôi hơn. Chỉ ngậm ngùi cho người ở lại mà thôi, như thiền sư Nhất Hạnh tiếc thương thi sĩ Vũ Hoàng Chương bị chính quyền Cộng sản bắt giam đầu năm 1976 và đã ra đi vào cuối năm đó trong lặng lẽ ngậm ngùi:

Đêm này dù đã về ngôi
Hồn thơ vẫn thấy luân hồi thế gian
Bút hoa ngàn kiếp không tàn
Đuốc thơ còn cháy trên trang sử người
Có không mù mịt biển khơi
Nẻo về đã rạng chân trời thênh thang
Tỉnh say vẫn một cung đàn
Lửa anh hào đốt cháy tan đêm sầu
Thơ lên bay vút bồ câu
Triều âm chấn động phương nào chẳng nghe
Giấc mơ hồ điệp đi về
Biển Đông sóng vỗ kình nghê vẫn còn.

TÂM NHIÊN
Nguồn: Văn Chương Việt
______________

Thơ Vũ Hoàng Chương trích trong các tập Thơ say, Mây, Rừng phong, Lửa Từ bi, Bút nở hoa đàm.

Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2019

“HÀ HƯƠNG PHONG NGUYỆT” – TIỂU THUYẾT QUỐC NGỮ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM?

Đó là câu hỏi mà bấy lâu nay các nhà nghiên cứu, giới học giả tranh cãi nảy lửa. Tuy nhiên, chưa ai có cơ hội đọc trọn vẹn tác phẩm đã làm hao tổn nhiều giấy mực nhất của văn chương quốc ngữ Nam Bộ giai đoạn đầu thế kỷ XX.

Giữa tháng 6-2018 khi bộ “Hà Hương phong nguyệt” được coi là trọn vẹn nhất (tính đến thời điểm này) công bố sau gần 100 năm “tuyệt tích giang hồ”, cuộc tranh cãi xuất hiện thêm nhiều ý kiến mới mẻ.

Từ cuốn sách bán chạy đến cái án “dâm thư”

“Hà Hương phong nguyệt” là tác phẩm đầu tay của nhà văn “khét tiếng” Lê Hoằng Mưu. Tác phẩm lần đầu ra mắt công chúng dưới dạng feuilleton (truyện đăng nhiều kỳ) trên báo “Nông cổ mín đàm” vào ngày 20-7-1912 với nhan đề “Truyện nàng Hà Hương”.

Truyện đăng đều đặn đến số báo ngày 29-5-1915 thì ngưng không rõ lý do dù nội dung vẫn chưa kết thúc. Do được độc giả yêu thích, năm 1914, Lê Hoằng Mưu mạnh dạn tập hợp in thành sách lấy tên mới là “Hà Hương phong nguyệt truyện” gồm 6 tập.

Lý do Lê Hoằng Mưu viết truyện này được ông nói rõ trong lời tựa: “Đồng bang hằng đọc truyện Tào diễn nghĩa, thông hiểu tích xưa, chẳng phải là chẳng ích chẳng vui. Nhưng mà coi bấy nhiêu đó hoài, lẽ khi cũng mỏi mắt đọc cang qua, nhàm tai nghe binh cách chớ?

Xét vậy nên tôi đặt bộ “Hà Hương phong nguyệt” nầy ra, thật là truyện đặt theo việc tình người đời, chẳng mượn tích ngoại phang gio diễn, để cho đồng bang cơn rảnh mua vui, lúc buồn xem tiêu khiển”.

Tác phẩm kể về cuộc đời của nàng Hà Hương – một cô gái phóng túng, đa tình và mưu mô. Các nhà nghiên cứu đánh giá có lẽ trong thơ văn Việt Nam cùng thời và trước đó, chưa từng thấy nhân vật nữ nào táo bạo trong chuyện ái tình như Hà Hương.

Những ham muốn gần gũi trần tục, những lời ve vãn bướm ong với chú Xã, với Ái Nghĩa, những chi tiết miêu tả chuyện ái ân một cách trực diện của Hà Hương được trình bày dày đặc trong tác phẩm. Mà lạ hơn nữa, trong những cuộc tình thoáng qua ấy, Hà Hương bao giờ cũng nắm trọn vai trò chủ động trong khi hình tượng người phụ nữ khi đó luôn gắn liền với tứ đức, tam tòng.
Bộ “Hà Hương phong nguyệt” trở lại trọn vẹn 
sau gần 100 năm thất lạc đã làm sáng tỏ nhiều tranh cãi.

Lý giải về lý do Lê Hoằng Mưu được giới văn chương bấy giờ tán tụng là “có sách bán chạy như tôm tươi giữa chợ buổi sớm”, Thạc sĩ Nguyễn Thị Phương Thúy, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh cho rằng, có thể xem “Hà Hương phong nguyệt” là một trong những tác phẩm khởi đầu cho văn học đại chúng Việt Nam.

Bên cạnh sự táo bạo, mới mẻ của cốt truyện, lộ trình đến với độc giả của cuốn sách này là một lộ trình vô cùng hiệu quả về mặt thương mại: đăng báo trước thu hút một lượng độc giả trung thành cho tác phẩm, sau đó in sách. Việc này cũng giống như nhiều tác phẩm đại chúng bây giờ ra mắt độc giả trên mạng Internet trước, có được lượng người hâm mộ hùng hậu rồi mới in sách như một cách đảm bảo nguồn thu và khuếch trương tên tuổi.

Nhưng hơn 10 năm sau, cuốn sách gây nên cuộc bút chiến dữ dội. Theo nhà thơ Lê Minh Quốc, cuộc bút chiến nổ ra từ bài báo “Dâm thơ” đăng trên tờ “Công luận báo” năm 1923 của Nguyễn Háo Đàng. Sau đó, nhiều nhà báo vào cuộc. Họ cho rằng tác phẩm “làm cho phong hoá nước nhà trở nên suy đồi, tội viết sách phong tình rất đê tiện rồi ấn hành mà rải bán trong dân gian gợi cái tính xác thịt của loài rời gia đình, tội làm cho dân trong nước trở nên đê tiện hèn yếu”.

Vậy “Hà Hương phong nguyệt” có bị kết án oan? Đọc lại các tình tiết mây mưa bị quy là làm suy đồi phong hóa, nhà thơ Lê Minh Quốc nhận thấy tác giả miêu tả rất ý nhị bằng thơ văn chứ không hề thô tục. Theo ông, “dâm thư” chỉ là cái cớ để người ta đả kích, mạt sát tác phẩm này. Bởi khi quan niệm khắt khe của Nho giáo về tình yêu nam nữ vẫn ăn sâu, người ta không thể chấp nhận Hà Hương – một nhân vật phản diện, biểu tượng diễn ngôn tính dục quá mới mẻ mà Lê Hoằng Mưu xây dựng thành nhân vật chính.

TS Võ Văn Nhơn phân tích: “Kiểu nhân vật biểu tượng cho sự cám dỗ của sắc dục này chưa hề có trong văn học truyền thống. Tác phẩm bị lên án vì đã chuyển tải một quan niệm không truyền thống về tình yêu, luân lý trong thời điểm nhân dân Nam Bộ cần cổ súy cho đạo đức truyền thống, cho tình yêu nước để có sức mạnh chiến đấu với giặc ngoại xâm hơn là những tình cảm cá nhân ngang trái, buông thả”. Dưới áp lực dư luận, tác phẩm bị chính quyền thực dân Pháp tịch thu và tiêu hủy. Do vậy, thế hệ sau này khó tiếp xúc với văn bản gốc.

Hành trình đi tìm “Hà Hương phong nguyệt” của TS Võ Văn Nhơn bắt đầu cách đây 10 năm khi ông tình cờ đọc nhận định của nhà nghiên cứu Bằng Giang trong công trình “Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930”: “Còn tiểu thuyết (không nói truyện ngắn) thì cũng chỉ bắt đầu với “Hà Hương phong nguyệt” của Lê Hoằng Mưu đăng báo năm 1912 và in thành sách năm 1915”.

Hiểu rõ tầm quan trọng và vị trí của “Hà Hương phong nguyệt” trong lịch sử tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, ông và cộng sự đi khắp thư viện ở Việt Nam để truy tìm. Nhưng họ chỉ tìm được tập 3. Riêng các số báo “Nông cổ mín đàm” năm 1913, 1914 lại không được lưu trữ đầy đủ nên việc tập hợp trọn vẹn tác phẩm trở nên khó khăn. Phải đến năm 2014, họ mới tìm được 6 tập ở Thư viện Quốc gia Pháp.

Quá trình dày công sưu tầm, chỉnh lý, sắp xếp “Hà Hương phong nguyệt” cho nguyên hình, nguyên dạng của TS Võ Văn Nhơn mất khá nhiều thời gian. Vì bản in báo có nhiều phần thất lạc nên trong cuốn “Hà Hương phong nguyệt” công bố lần này, phần 1 và phần 3 là bản in trên báo, phần 2 phải lấy từ bản in sách. Bản in báo có lối hành văn hiện đại hơn so với bản in sách (do chiều theo thị hiếu của độc giả lúc đó nên khi tập hợp phần đã in feuilleton trên báo để in sách, Lê Hoằng Mưu đã chuốt gọt theo hướng giảm số câu văn xuôi, tăng số câu văn vần).

Tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam?

Trước đây, quyển tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên được xem là “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách xuất bản năm 1925. Nhưng với các phát hiện gần đây, vấn đề này đã được xem xét lại. Trong công trình “Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930”, nhà nghiên cứu Bằng Giang từng khẳng định: “Từ truyện “Thầy Lazaro Phiền” (1887) của Nguyễn Trọng Quản đến “Hoàng Tố Anh hàm oan” (1910) của Trần Thiên Trung, “Phan yên ngoại sử - Tiết phụ gian truân” (1910) của Trương Duy Toản phải mất hết 23 năm.

Số trang của hai tác phẩm này cộng lại cũng chỉ được có 103. Chỉ mới đáng kể là truyện ngắn chứ chưa phải là tiểu thuyết. Đến năm 1912, “Truyện nàng Hà Hương” của Lê Hoằng Mưu đăng trên “Nông cổ mín đàm” từ 20-7-1912 mới đáng kể là tiểu thuyết”.

Nghiên cứu, sưu tầm và chỉnh lý tác phẩm này, TS Võ Văn Nhơn phân tích: “Hiện thực phản ánh trong tác phẩm khá rộng lớn, có thể xem đây là một xã hội Nam Bộ ở đầu thế kỷ XX được thu nhỏ. Trong tác phẩm có các gia đình giàu lẫn những gia cảnh nghèo hèn; có cảnh Sài Gòn đô hội phồn hoa bên cạnh cảnh nghèo hèn thôn dã; có cảnh tòa xử án, trạng sư biện hộ...

“Hà Hương phong nguyệt” ra đời vào thập niên thứ hai của thế kỷ XX, vì thế vẫn còn mang những dấu vết của giai đoạn giao thời. Ghi là Roman Fantastique (tiểu thuyết) nhưng câu văn của tác phẩm rất gần với thơ, với văn biền ngẫu. Nhưng với dung lượng đáng kể, với hệ thống nhân vật đa dạng, ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, đặc biệt là nghệ thuật phân tích tâm lý khá đặc sắc, tác phẩm này của Lê Hoằng Mưu có những bước đột phá vượt bậc so với các nhà văn cùng thời, xứng đáng là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của Nam Bộ, của Việt Nam”.

Nhà nghiên cứu Trần Nhật Vy không đồng tình với nhận định này. Ông cho rằng: “Nếu phân tích hai chữ tiểu thuyết thì rõ. Tiểu là nhỏ, bé và thuyết là nói hay kể một câu chuyện. Bất kể ngắn hay dài chúng đều là tiểu thuyết cả. Do đó, trong “Đại Nam quốc âm tự vị”, Huỳnh Tịnh Của định nghĩa tiểu thuyết là “chuyện nói chơi, sách nói về chuyện ngoài, chuyện đặt để”.

Và dĩ nhiên hoàn toàn không có chữ “truyện dài” trong các định nghĩa ấy. Với cách hiểu nầy, tôi nghĩ rằng, “Hà Hương phong nguyệt” không phải là tiểu thuyết đầu tiên”. Ông đề nghị, nếu tác phẩm có tái bản, thì nên ghi “Hà Hương phong nguyệt, tiểu thuyết dài, nhiều tình tiết đầu tiên của Việt Nam”.

Nhà thơ Lê Minh Quốc cũng cùng quan điểm. Theo ông, xét về cách hành văn với phong cách biền ngẫu của “Hà Hương phong nguyệt”, câu chữ du dương, nhịp nhàng vần điệu thì gọi chính xác nhất vẫn là truyện thơ, một sự nối dài của truyện thơ nôm khuyết danh “Lâm tuyền kỳ ngộ”, “Phạm Công - Cúc Hoa”, “Chàng Chuối tân truyện”… Có khác chăng là hình thức biểu hiện của từng câu thơ không xuống dòng.

Một khi đã gọi tiểu thuyết hiện đại, trước hết phải căn cứ vào cách hành văn, diễn đạt các con chữ. Đó chính là yếu tố quan trọng nhất. Các tiêu chí: “Với dung lượng đáng kể, với hệ thống nhân vật đa dạng, ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, đặc biệt là nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật khá đặc sắc”, chỉ là yếu tố phụ, là cần nhưng vẫn chưa đủ.

TS Hà Thanh Vân cho rằng việc tác phẩm này có phải là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam hay không không quan trọng. Cái quan trọng là giá trị mà nó đem lại cho nền văn học sử Việt Nam. Sẽ không có gì tranh cãi nếu coi đây là tiểu thuyết quốc ngữ về nữ quyền đầu tiên của nước ta.

Việc công bố trọn vẹn tác phẩm này là một sự kiện quan trọng, góp phần làm rõ hơn diện mạo, hành trình ban đầu hình thành thể loại tiểu thuyết hiện đại ở Nam Bộ và Việt Nam nói chung.

MAI QUỲNH NGA
Nguồn: VNCA


Thứ Hai, 18 tháng 3, 2019

Ý NHI, CUỘC ĐỘC THOẠI TRIỀN MIÊN

Có một ai đó yêu văn chương chữ nghĩa một chút, ở rất xa rất khác vùng địa lý lãnh thổ, chẳng hạn một người ở thành phố lớn đô hội, một người ở vùng đất ít người qua lại... đọc một truyện ngắn của Ý Nhi, bất kỳ truyện nào cũng có thể nói: ờ, đời người có, như vậy.

Nói như thế không có gì to tát, chỉ có điều đơn giản, Ý Nhi viết truyện ngắn không có nhiều yếu tố cảnh sắc, không gian, đất và nước và ngữ điệu vùng miền riêng biệt. Truyện ngắn của chị viết về một khoảnh khắc nào đó của cuộc đời với đầy tâm trạng. Ai cũng đồng cảm được.
Nhà thơ Ý Nhi

Ý Nhi của thơ. Thơ chị chiếm đầu bảng trong dòng thơ phái nữ phía Nam ở ta. Không nhiều du dương cảm xúc nhưng khác biệt ở chỗ nó nghĩ ngợi trở qua trở lại nó lay thức người đọc. Thơ khiến ta thấu hiểu. Không mấy ai có thể bỏ qua có thể thờ ơ với những nhân vật thơ của chị. Người đàn bà ngồi đan sống thế nào trong đời thực? Hình bóng của ai đây? Thường ra đó là câu hỏi dành cho nhân vật văn xuôi. Nhưng đây là thơ. Thơ của chị là của ý tứ của ngôn từ, thường ta ít thuộc được thơ tự do nhưng Ý Nhi, thơ chị, lại bất chợt đến với ta trong những lúc ta đơn độc.

Tôi nói với ý nghĩ của một người không làm nổi một câu thơ, loại hình khó nhất trong sáng tạo nghệ thuật. Tôi kính trọng và ngạc nhiên trước những câu thơ hay, trước người làm thơ cho dù họ không phải cày cuốc nhiều chữ nghĩa như dân văn xuôi. Với Ý Nhi, cái sự nói lý trong thơ lại là độc đáo khiến trí tuệ của chị thu phục hơn nhịp điệu dễ chịu. Từ sự độc đáo của thơ, Ý Nhi viết những truyện ngắn cũng độc đáo.

Những truyện ngắn xuyên suốt tâm trạng của một người đàn ông trong nhà của anh ta, trong quán cà phê, bên một người nào đấy mà không nhiều đối thoại, trong một chuyến đi, lúc buổi sáng, lúc đêm khuya... Hầu hết là anh ta tự nói với mình nhưng mỗi truyện có một không khí riêng biệt, rất sinh động, không hề trùng lắp. Cái đó là tài quan sát, lắng nghe, suy luận, tưởng tượng... của tác giả. Chị như vẫn đi với thơ trong truyện ngắn.

Bài thơ Người đàn bà ngồi đan có những câu: Giữa chiều lạnh một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ... Mở đầu một tâm trạng, một cuộc đời một số phận. Rất nhiều bài thơ của Ý Nhi có thể viết thành truyện ngắn: Hai người - Cát - Ngày thường - Thuyền trưởng - Cái chết của nhà thơ - Vườn - Ký ức - Hà Nội, một ngày nào - Quán cũ.

Truyện Phòng chờ chẳng hạn, có thể hình dung nó đã là một bài thơ.

Một người đàn ông ngồi ở phòng chờ sân bay. Anh ấy thích đến đó. Ngồi ở đó hàng tiếng đồng hồ. Người ta thấy lạ rồi quen đi. Người đàn ông đó với những kỷ niệm chả hay ho gì về đàn bà đi qua đời anh. Một cô Hải xinh đẹp anh sóng đôi tự hào cho đến khi cô bật ra cái câu thông thường của đàn bà chê bai dè bỉu xung quanh. Rồi cô Phương trầm lặng suốt buổi xem vở kịch với anh, rồi cô Phương thành vợ anh để suốt cuộc hôn nhân anh chỉ nghe được ở cô: thế à - thế á - cô không lãng phí thời gian và từ ngữ với anh.

Cái vẻ tuân phục nhẫn nhịn ấy giày vò anh đến nỗi anh tự hỏi: thông minh hay u mê? Anh trở nên lạc lõng trong hôn nhân... Rồi có một cô Bê thoáng qua. Thầm lặng nhưng không giống cô Phương. Nó mời gọi anh khám phá... Ở phòng chờ anh bắt gặp một gã đàn ông cũng đến ngồi một mình. Anh ta nói có trọng bệnh muốn tìm một người để chào từ biệt trước khi đi. Tập ghi chép của người đàn ông kia gửi anh có những dòng ám ảnh về Phòng chờ. Không phải cái phòng chờ ở sân bay. Nó là phòng chờ ở các bệnh viện công và tư. Cái thứ phòng chờ đau đớn tuyệt vọng. Trong tập ghi chép ấy người đàn ông ám ảnh về một cô P. nào đó.

Một cô P. có thể là lý do gây cho anh ta sự bệnh tật trong tâm hồn... Truyện ngắn không nói đến cũng không bật mở một cái gì lạ lùng nhưng nó gợi nó khiến cái sợi dây liên tưởng: có cái gì giữa người đàn ông kia và cô Phương vợ người đàn ông này? Có cái gì để khiến cô ấy hầu như câm lặng trong đời sống hàng ngày dù người chồng của cô khá hoàn hảo.

Trên đây tóm tắt truyện Phòng chờ. Hãy hình dung xem, đó là một bài thơ. Nhân vật chính trống trải ngồi ở sân bay trong phòng chờ giữa đông người nghĩ ngợi liên miên về cuộc hôn nhân lạnh lẽo ở phòng chờ khác, phòng chờ trong bệnh viện giữa những lo âu sợ hãi, có một người đàn ông khắc khoải về bệnh tật về người đàn bà của anh ta. Thông thường người viết văn xuôi tóm ngay cái chi tiết vì sao cô Phương sống với chồng như cái bóng câm nín suốt bao năm? Vì sao lại có cô P. nào đó trong ghi chép của người đàn ông ở phòng chờ bệnh viện, người gây nên bệnh tật trong tâm hồn anh này. Không phải chỉ là tình huống truyện ngắn. Nó là cả một tiểu thuyết khắc khoải về những điều không toại nguyện của đời người. Trong truyện này, cũng là một bài thơ, Ý Nhi chỉ gợi đến một tình huống. Tùy mỗi người tưởng tượng. Theo tôi đấy là cách viết cao tay, kiềm chế tối đa cảm xúc, là nghệ thuật cài cắm trong đó hiện diện sự hồi hộp của người viết khi nhân vật của chị hành động theo cách riêng của họ.

Thường truyện ngắn của Ý Nhi hay miêu tả tâm trạng một người đàn ông trong đời sống hàng ngày. Hầu hết nhân vật chính của chị là đàn ông. Có lẽ chị cũng không hiểu sao lại thế. Những người đàn ông có trí tuệ có học hành không bao giờ hành động quyết liệt để giành lấy cái gì, anh ta chừng mực, mà nén đau đớn hay hạnh phúc... để cho mọi chuyện được ổn thỏa. Để không khiến người khác khổ vì mình... "Anh đứng bật dậy chạy ra phố mua một túi hoa quả, vừa lúc vợ anh về. Anh cười, em đừng nấu nướng nữa, chiều nay nhà mình đi ăn tiệm. Vợ anh nhìn anh giọng lạnh tanh, có gì mà hào hứng vậy, vừa đi chơi với bồ về à? (truyện Roy Evan rời bỏ Liverpool). Cũng trong truyện này người đàn ông níu kéo vô vọng người chung quanh vào các niềm đam mê mà anh tưởng rằng tột đỉnh của cái đẹp, thì, như mọi lần người ta làm anh rơi xuống. Ví như nói tới tranh Van Gogh mọi người bị cuốn vào giá cả. Nói tới Ronaldo người ta nhắc đến giá chuyển nhượng ghê người... Về nhà anh gặp sự dửng dưng của người đàn bà gắn với anh trong suốt cuộc hôn nhân... Không ngạc nhiên, không gay gắt phản ứng, người đàn ông trong truyện - và các truyện khác - đều có cái gì đó như bình thản. Sự bình thản này gây nên nỗi chua xót với người đọc. Anh ta chẳng có cánh cửa nào để đi ra nữa. Cuộc đời tràn ngập sự lạnh lẽo vô cảm, anh cô đơn với khao khát dằn vặt riêng mình để làm gì?...

Nhân vật hầu như xuyên suốt trong các truyện ngắn của Ý Nhi, có dáng dấp chung nhưng mỗi câu chuyện lại có màu sắc riêng biệt, không trùng lắp. Những số phận khác biệt nhưng cách xử sự của nhân vật có một cách chung: bình thản, can đảm chấp nhận. Những truyện ngắn thật hay: Có gió chuông sẽ reo - Lại mưa - Tiếng chuông - Giữa khuya - Bạn vong niên - Cao nguyên - Chuyến bay... Những tên truyện rất gợi, khơi dậy cái gì đó như tò mò, ám ảnh. Những truyện ngắn là một khoảnh khắc, ít quá khứ, không tương lai. Có những người viết tài năng, hấp dẫn, người ta đón chào tác phẩm một cách sôi nổi. Nhưng đọc rồi, bận bịu với hàng ngày rồi, người ta sẽ quên, thậm chí quên triệt để, có thể chỉ còn nhắc một cái tên tác giả. Ý Nhi là một trường hợp lạ. Có thể không nhiều người đọc vì nó không bình dân. Nhưng nó sống day dứt trong ai đã từng đọc dù cho các truyện đều không có chuyện, không thể kể lại, không có tình huống phức tạp. Hầu hết như là các độc thoại. Rất nhiều các khoảng lặng mà căng thẳng dồn nén. Truyện Phòng chờ có khoảng lặng sâu sắc.

Truyện ngắn đi cùng với thơ, tiết chế, hầu hết là "ý tại ngôn ngoại". Nhưng vượt lên trên một bước, tác giả có cái nhìn của người viết văn xuôi, miêu tả, kể chuyện không rườm lời, không để nhân vật có động tác thừa. Tất cả động tác đi, đứng, ngồi, cầm ly rượu, điếu thuốc, bó hoa, gõ cửa, nhìn cái gì đó ngoài cửa sổ, đều được tác giả chăm chút, cân nhắc đặt chữ đúng chỗ sao cho nhân vật sống động, gắn kết động tác với tâm trạng. Không có cách viết tùy hứng. Nhưng câu văn nhiều cảm xúc, chân thật. Trong thế giới con người càng hay mất đi cái riêng tư của nội tâm, điểm xuất phát của lòng tốt của sự sáng tạo, mất đi sự cô đơn cao cả với những phút thư giãn trong tâm hồn, Ý Nhi nhắc ta về sự thiệt thòi đó. Con người không thể hiện hữu vô tâm trong sự ồn ào trống rỗng.

***

Ý Nhi làm được những việc rất khác biệt nhờ truyện ngắn. Chị đứng ở vị trí người đàn ông - hầu hết nhân vật - để có cơ hội bộc lộ hết những thông minh sắc sảo, vừa cứng cỏi vừa yếu đuối của con người. Truyện của chị ít tình huống phức tạp nhưng chật chội tâm trạng tâm thế.

Khác với nhiều người viết ít khi trọng chữ, Ý Nhi như trên đã nói, cân nhắc kỹ càng khó tính như lúc làm thơ. Nhiều khi để kể câu chuyện rắc rối tình tiết, người ta lướt qua để rồi hiện hình một câu chuyện vô hồn. Chữ với Ý Nhi là cảm xúc. Truyện nào của chị cũng đầy tràn cảm xúc. Có thể nhớ rất lâu sự trục trặc giữa hai con người tưởng như gắn bó trong truyện Roy Evan rời bỏ Liverpool. Những gặp gỡ tình cờ sau đó là sự khắc khoải của người đàn ông mấy lần định tới Phìn Sa mà không đi được dù không có gì cản trở trong truyện Phìn Sa... Những truyện ngắn thực hay, mẫu mực về ý tưởng và ngôn ngữ. Cũng trong truyện ngắn, Ý Nhi nhắc da diết tới tuổi trẻ ở Hà Nội, thời có nhiều khi người ta vượt qua nỗi khổ áo cơm nhờ những cảm xúc trong sáng với phim ảnh, thể thao, bè bạn. Đọc truyện của chị gặp lại Maradona - Hohan Cruyss - Fran Berkenbauer - Platini - Johan Nicoud - Zidane - Figs - Hagi - Roberto Carlos - Nedved ... Thời khắc Hà Nội bao cấp nhưng con người có lẽ vẫn tìm được một thứ điểm tựa nào đó để vượt qua. Điểm tựa đó có lẽ là tình yêu hết lòng, không vụ lợi, đầy sự hy sinh, cái tình cảm thấy thoáng trong hàng loạt truyện ngắn của Ý Nhi.

Hãy đọc những Năm cuộc điện thoại - Ba sẩm tối - Điểm dừng - Một giờ sáng và nhiều truyện ngắn của chị. Con người thấy hạnh phúc vì có tố chất của hạnh phúc nhưng cũng suốt đời thiếu vắng trống trải. Một mình đi qua, đi trong cuộc độc thoại triền miên về cái đẹp, về sự cô đơn.

LÊ MINH KHUÊ
Nguồn: NVTPHCM

NHÀ VĂN THÙY DƯƠNG: TRĂN TRỞ VỚI MỖI THÂN PHẬN NGƯỜI

Nếu không biết Thùy Dương sinh ra và lớn lên ở Hải Dương, sẽ đoán   chắc nàng là người Hà Nội gốc. Gọi là nàng v ì nàng không chỉ xinh đẹp, ...

BÀI ĐỌC NHIỀU