50 năm cho cuộc
hành trình lịch sử và thơ - hành trình ứa lệ máu khát vọng nhân văn. 50
năm và giờ anh đang “trước đèn” ở Thụ triết trang hay đang
lang bạt dọc đường gió bụi phù sinh? Nhưng chắc hẳn một điều rằng
những “hồng cầu thơ” vẫn lặng thầm sinh nở từng giây, từng khắc
trong tâm thức anh…
Hai nhà thơ Triệu Từ Truyền và Phan Hoàng
1. Cầm tập văn trên tay, “Dòng thơ giữa
đôi bờ tri thức và tâm thức” dậy lên trong tôi nhiều xúc cảm khó tả. Một
thoáng đời mà đã hơn bốn mươi năm. Một buổi chiều bức bối, ngột ngạt ở
một xóm nghèo Phú Nhuận - Sài Gòn năm 69 của thế kỉ trước trên chiếc đi-văng sờn
gỗ trong căn nhà của gia đình thuê lại, anh đọc tôi nghe mấy bài thơ trong tập “Đêm
lên cơn dài” với bút danh Triệu Cung Tinh. Tôi trở thành bạn
thơ của anh từ buổi chiều đó. Do thời cuộc và sinh kế cũng như khoảng cách địa
lý, chúng tôi ít gặp lại nhau. Nhưng qua thông tin bè bạn, cho dù ở cương vị
lãnh đạo cấp quận thuộc thành phố nhất là từ khi về lại với cõi đi về
(Trịnh Công Sơn) anh vẫn làm thơ, cho in nhiều tập thơ với bút danh mới Triệu
Từ Truyền. Thật là tuyệt, hóa ra anh vẫn nồng nàn hết mực với người
tình thơ, tiếp tục sáng tạo và làm mới thơ ca của mình.
Anh đã chọn Thơ hay Thơ đã chọn anh? Một đời
làm thơ và tập Bình Luận về thơ anh, Triệu Cung Tinh – Triệu Từ Truyền đã
có lời đáp. Nhà văn Ngô Thị Kim Cúc cũng đã nói về anh như thế “… hai lần
nhập cuộc chơi đã chọn…” kiên định bằng bản lĩnh của một tài năng đẫm “khí
chất lãng mạng.”(Nhập cuộc với chính mình, báo Tuổi trẻ 3/5/1994).
Còn nhà thơ Đoàn Vị Thượng khi viết Lời tựa cho Tuyển
thơ song ngữ (Nxb Trẻ - 2010) của anh khi trích một đoạn cuối ở
bài “Cát Tiên ca”, đã viết: “Ứng vào anh, con đường
thơ của Triệu Từ Truyền cũng: Bắt đầu sinh sôi và kết thúc cũng sinh sôi? Người
thơ này không có tuổi”.
Tất nhiên ta cũng hiểu được đây không phải là tính đếm
tháng năm đời người sinh hạ trong cõi nhân gian mà muốn nói đến con đường
thơ – hành trình thơ của Triệu Từ Truyền, hành trình tâm thức suốt
dọc một đời thơ của anh. Tính đến nay đang băng đến ngưỡng “thất thập” (sinh
tháng 4.1947), Triệu Từ Truyền đã gởi đến bạn đọc 11 tác phẩm, gồm thơ, tản văn
– tiểu luận, truyện dài và nhiều bài viết mang đậm thể cách, tư tưởng
khó nhầm lẫn với những cây bút khác trên các báo viết, báo mạng có uy tín trong
và ngoài nước. Đó là chưa kể hoạt động sôi nổi làm báo, chủ biên nhiều tạp chí
văn học, thơ ca…của anh.
2. Đánh giá sự nghiệp văn học của một tác gia,
các nhà nghiên cứu, phê bình văn học thường nói đến số lượng cùng tư
tưởng, thông điệp tác phẩm mà người sáng tác cống hiến cho đời, cho
nhân loại. Văn xuôi có đến hàng chục, vài mươi, vài trăm tác phẩm. Thơ có đến
hàng trăm đến hàng nghìn bài, tập thơ đếm từ 2, 3 con số trở lên…Làm sao mà
không thán phục. Bởi đó tim chảy, óc vắt đến kiệt cùng của tài
năng sáng tạo, những người tự nguyện làm nô lệ-tự do (chữ dùng
của nhà văn Ma Văn Kháng) cho văn học. Nhưng luật “kiểm định” nghiệt ngã của Thời
Gian và Bạn Đọc-Công Chúng Văn Học nhất là Bạn Đọc, người
đồng sáng tạo với tác giả lại đòi hỏi tinh thể văn chương lắng
sâu lâu dài trong con tim, tâm tưởng của họ. Và khi ấy mới thực sự tỏa sáng những Mặt
Trời, những Tùng Bách vỉnh cửu xanh tươi.Điều đó cho thấy thước đo “ chất
lượng” sản phẩm văn học nghiêm ngặt nhất vẫn là “quý hồ tinh bất quý hồ
đa”. Trong chiều hướng ấy ta hãy đến với Tập bình luận về
6 tập thơ, số lượng khiêm tốn nếu không nói là it ỏi của Triệu Cung
Tinh – Triệu Từ Truyền.
3. Tìm hiểu về cuộc đời của nhà thơ Triệu Cung Tinh – Triệu
Từ Truyền những người yêu thơ anh và các cây bút phê bình văn học đều
có chung một nhìn nhận: “li kì” và dám bứt phá trong
đời và cả trong thơ. Triệu Từ Truyền tên khai sinh là Triệu Công Tinh Trung,
sinh ngày 9.4.1947, Sa Đéc
Đồng Tháp. Anh làm thơ và tham gia hoạt động cách mạng ở
độ tuổi còn rất trẻ, 15, 16 tuổi. Hai lần (năm 1966 và 1971) trãi qua chốn địa
ngục trần gian, nhà tù Côn Đảo. Năm 1975, hòa bình lập lại đang làm việc ở
cương vị lãnh đạo cấp quận chưa tròn mười năm (1975 - 1983) thì anh đột ngột “dứt
áo quan trường” để phiêu bồng với thơ, sống chết với thơ!
Nói cuộc đời anh “li kì” có vẻ như mang màu sắc trinh
thám mà phải nói sát hợp hơn là “dữ dội’ như nhà văn Phùng Quán viết về “tuổi
thơ dữ dội” của mình. Từ lúc chào đời, tuổi thơ anh đã nếm trãi gian nan. Ấn tượng
khó phôi phai trong tâm trí, tình cảm là chiếc xuồng tam bản dập dềnh trên sông
nước. Bởi ba mẹ anh đều là nhà giáo, tham gia kháng chiến chống Pháp ở miền Tây
Nam Bộ chở theo. Bao bọc tâm hồn trẻ thơ anh là những vần thơ yêu nước, yêu người
của Phan Văn Trị, Tản Đà, Xuân Diệu… và nhất là “không
khí anh hùng ca, sống trong khói bom, đạn pháo và chết chóc ở bưng biền cho đến
khi Hiệp định Genève được ký kết”.(Trả lời phỏng vấn báo Vietnamnet ngày
21.3.2009) Sự tàn khốc của chiến tranh phi nghĩa, ám ảnh anh ghê gớm,
hằn sâu thành nhận thức, thành ý thức tự nguyện đến với Cách mạng,
với phong trào đấu tranh của HS, SV Sài Gòn, Gia Định ngay khi còn học lớp đệ
Tam, đệ Nhị (lớp 10, lớp 11 bây giờ). Tất nhiên trong anh có dòng chảy dạt dào
của truyền thống một dân tộc anh hùng, của mẹ cha yêu nước, kháng chiến nên đã
đặt tên anh theo một câu thơ cổ “tinh trung báo quốc”. Anh
mang tuổi thanh xuân hiến nguyện cho Cách mạng hòa vào cuộc đấu tranh sục sôi của
tuổi trẻ đô thị giữa những dòng kẻm gai, ma trắc, lựu đạn cay... Anh trãi qua
những tháng năm đen tối đọa đày trong nhà ngụcChí Hòa, Tân Hiệp… 6 năm “bầu
bạn” với “Hạt trắng hộp sọ bãi Hàng dương Côn đảo” (Sài Gòn – tôi, Triệu
Từ Truyền). Song hành trên bước đường làm Cách mạng anh vẫn sáng tác thơ
ca, vẫn in thơ, vẫn làm báo. Vì nhiệm vụ được giao cũng có, nhưng thẳm sâu ở
anh là tình yêu Thơ ca, niềm đam mê sáng tạo văn học, khát khao đổi mới văn học.
Có đến hai con người trong anh chăng? Khi hồi tưởng về cái thời
anh và bạn “trúng bùa của thi ca” anh cũng từng nói: “…
Không hiểu sao trong tôi chưa bao giờ xung khắc giữa đam mê văn học và hoạt động
cách mạng…” (Tiếc nhớ Nguyễn Tôn Nhan – Triệu Từ Truyền). Nhưng Nguyễn
Tôn Nhan, tức Trần Hồng Nhan được đề cập trên, bạn
tri âm của anh và cũng là người đồng sáng lập nhóm Bộ Lạc Mới năm
1966 lại viết: " …Triệu Cung Tinh sớm có những hoạt động
cách mạng từ những ngày còn học Trung học. Anh luôn băn khoăn về số phận của đất
nước lúc ấy đầy tràn những bóng lính Mỹ. Có lẽ từ lòng yêu thơ, yêu cái đẹp mà
càng ngày Triệu Cung Tinh càng tiến đến gần cách mạng giải phóng dân tộc chăng? (Chút
kỷ niệm thơ với Triệu Cung Tinh - Sài gòn 7.1991). Yêu Cái
Đẹp, yêu Thơ, tôi cho rằng từ mẫu tâm tình của Nguyễn Tôn Nhan giúp
chúng ta có một nhìn nhận đầy đủ về anh, Tư Truyền – bí danh
thời hoạt động máu lửa “…làm cách mạng luôn là nhiệt huyết tuổi thanh
xuân…” trong lòng địch cùng đồng đội “…chống quân phiệt
đòi dân chủ, thiết lập chính quyền dân sự và đòi quân đội Hoa Kỳ rút quân…” (Bài
phỏng vấn đã dẫn) khỏi miền Nam giành lại Hòa bình, Độc Lập, Tự do cho
Dân Tộc. Anh yêu và chiến đấu vì Tự Do cho con người trong đó
có hàng triệu, hàng triệu đồng bào nghèo khổ của mình, Hòa Bình cho
dãi đất chữ S mến yêu là khí trời, tinh túy của Cái Đẹp mà
nhân loại trên hành tinh này đều muốn thụ hưởng. Tôi cho rằng đó là cảm
thức nhân văn đã được đắp nền ở anh, một chủ thể sáng tạo ngày càng vững
chắc trên bước đường kiên định thực hiện hành vi sáng tạo xã hội, hành
vi dữ dội (Những chữ qua cầu tâm linh - Triệu Từ Truyền)
trong đời mình: làm cách mạng, chiến đấu vì Cái Đẹp - Tự Do, Hòa Bình.
4. Năm 1966, anh và những người bạn đã đưa ra tuyên ngôn
trong bài “Ý thức Thơ Bộ Lạc Mới” khá sớm lúc 19 tuổi: “Thơ là những ngôn-ngữ-cử-động, chứ không
phải như ngôn từ xuất phát từ triệu cửa miệng hàng ngày. Ngôn-ngữ-cử-động có thể
chất chứa ý nghĩa hoặc tự nó xuất hiện ý nghĩa trong tâm trí con người...”. Trên
hành trình cầm bút của mình, anh nhọc nhằn kiên trì sáng tạo thơ ca, làm mới
thơ ca chứ không chỉ phát sáng nhất thời. Nhà thơ Cung Tích Biền,
một trong những cây bút tiếng tăm của Văn học niền Nam trước 1975 từng đọc thơ
anh viết từ năm 18 tuổi đã vui mừng, sau ba mươi năm chờ đợi đã tìm thấy nơi
anh “một dòng thơ khác”: “…Triệu Từ Truyền đã ý thức vươn tới,
luôn khắc khoải làm mới để triệt để từ bỏ mình, tự hủy để hóa thân
cùng chữ nghĩa…” (Tình trí, thực mộng một cách hồn nhiên thổn thức). Và
tất nhiên ở anh còn có cả một chủ kiến trong công việc sáng tác văn học,
đặc biệt là sáng tác thơ ca. Bằng vốn tri thức phong phú, một chặng
đời dài sống hết mình và cũng viết hết mình (Từ Kế Tường) anh
nghiền ngẫm, vận dụng có chủ đích kiến thức triết học Đông Phương, Tây Phương,
kiến thức Vật lý học đương đại trình bày chủ kiến về mối tương tác giữa
năng lượng tâm linh và sáng tạo thơ ca qua 21 bài viết trong
tập Tản văn và tiểu luận Những chữ qua cầu tâm linh trong mười bảy năm
ròng (1991 – 2008). Tiếp nhận, đồng thuận kể cả phản biện những kinh
nghiệm có tính hệ thống này (có thể xem là quan niệm sáng tác được chăng?) ở giới
cầm bút, các nhà nghiên cứu văn học, hoạt động lý luận văn học nước nhà…xem ra
anh và chúng ta phải còn kiên lòng chờ đợi. Nhưng dù sao đây là nổ lực tâm
huyết đáng trân trọng.
5. Tập văn này với nhiều góc nhìn khác nhau. Những con
mắt xanh của những người yêu thơ anh, những nhà phê bình văn học,
những thi hữu đã thành danh hoặc có vị thế trên văn đàn Việt. Trong đó
không ít người cầm bút đã từng đồng hành qua những thác ghềnh cuộc đời, cùng
hít thở “ bầu khí quyển văn nghệ Sài Gòn trong trẻo và hấp dẫn” (Tiếc
nhớ Nguyễn Tôn Nhan – Triệu Từ Truyền) đắm say sáng tạo và yêu thích
những bài thơ đầu tiên mấy mươi năm trước của anh cho đến những dòng
năng lượng tâm linh ( Sách đã dẫn - Triệu Từ Truyền) chảy
thành những câu, chữ - những linh tựtrong những bài thơ, tập thơ mới
nhất hôm nay. Mỗi con mắt xanh là một góc nhìn đồng điệu tri
âm. Còn tôi chỉ là một bạn thơ gắn bó với anh bằng mối duyên tình văn
chương bất chợt, chỉ nói thêm đôi điều:
- Ơ buổi đầu làm thơ, xúc cảm thơ ở anh
đã manh nha một khát vọng nhânvăn như trong bài “Quê hương” anh
viết năm 15 tuổi. “… Chiều chiến chinh ngủ trong lòng/ màu than nhuộn đỏ
mấy dòng nước xưa/ mộ con đất lấp chưa vừa/ nhà hiu quạnh dọn cơm thừa ẩm thiu/
người em mắt rã trong chiều/ người du mục dựng vẹo xiêu mái lều…”
Cảm thức ấy càng lắng sâu, không thôi day dứt trong
tập thơ “ Đêm lên cơn dài”. Đương thời, Như Trị người giữ vườn
thơ của tuần báo “Văn Nghệ Tiền Phong” Sài Gòn, số 217 tháng 9 năm
1963 đã nhận ra nỗi ám đó : "..Những vần thơ chua xót, gợi sầu, thể hiện được tất
cả những băn khoăn của tuổi trẻ giữa thế giới u ám ngày nay". Ở một người viết khác, nhà
thơ Từ Kế Tường (bộ ba chủ lực của nhóm Bộ Lạc Mới) năm 1966 với cái tên Cung
Nhự Thức đã viết một bài giới thiệu “nồng nhiệt, trang trọng” trên tờ Nghệ Thuật
Sài Gòn, đáng chú ý là đoạn viết về tờ bìa tập thơ thôi cũng gợi
ra nhiều điều. “Tập thơ ra đời trong thiếu hụt chạy bén gót nằm tràn
lan để rồi tỉnh bơ khi ra mắt với cái bìa vội vàng của Trần Hồng Nhan, một
gương mặt bầu dục hai cánh tay xương xẩu với những giọt nước mắt. Bao nhiêu đó
có đủ để nói một cái gì đó không?Hiển nhiên là không…”. (Về một tập
thơ bị bỏ quên – Đêm lên cơn dài của Triệu Cung Tinh). Cũng phải nói đến
Nguyễn Lệ Tuân trên tuần báo Hồn Trẻ - Sài Gòn năm 1967 đã nhiệt
tình đồng cảm với tiếng thơ anh khi đọc các bài thơ “hai tôi”, tâm trạng”,
nước mắt”: “…Tôi nằm xuống và lắng nghe hơi thở trong lòng đất: - nước mắt vẫn
chảy đều thành suối, thành sông, thành biển cả. Tôi hình dung Triệu Cung Tinh
đi ngược dòng nước lũ qua thi phẩm Đêm lên cơn dài – một sự thật bi thảm được
thể hiện trong thơ tiếng nói ước vọng của tuổi trẻ một phần đất tang
thương”. Và ở cuối bài viết: “…Tập thơ Đêm lên cơn dài mang
hành trang vì đã thắp sáng dồn nén trong bóng tối…”.
Những dòng cảm xúc của những tác giả của thời xa
xưa, những người cùng độ tuổi 18, 20 đang sống ở giai đoạn phần
đất tang thương – miền Nam đang ngập tràn bóng tối là những cảm
nhận chân thực về thơ anh. Tiếng thơ anh là tiếng thơ tranh
đấu trãi dài trong tập Đêm lên cơn dài , nhất là thi
phẩm Bài thơ bắt đầu được viết nên bởi một thanh niên
đang nhiệt huyệt dấn mình trong lửa đỏ đấu tranh cách mạng với cách thể hiện rất
riêng, rất mới.
- Nhưng phải chăng nên tìm đến căn cơ
tâm thức của chủ thể sáng tạo, đó là cảm thức nhân văn bên
cạnh tinh thần tranh đấu trong thơ Triệu Từ Truyền thời
ấy. Bởi ở bài thơ Bé thơ Sơn Mỹ, bài thơ viết về
cuộc thảm sát hàng trăm đồng bào ta do một trung đội lính Mỹ gây ra ngày
16/3/1968 tại làng Sơn Mỹ, Quảng Ngãi, ký tên Lê Dân đăng trên tuyển tập
thơ “Ta đã lớn lên bên này Châu Á” (Triệu Từ Truyền, người viết
bài thơ Sơn Mỹ - Nhà báo Lê Văn Nuôi). Uất nghẹn hờn căm và thúc giục kêu gọi
hành động, mà phải hành động ngay là lẽ đương nhiên: “
Sơn Mỹ, vết thương đau nhức từng giây/ Ta không đợi một giờ hay chiều tiếp/ Phải
hành động ngay mới còn cứu kịp/ Những mẹ già, em nhỏ phút giây này”. Tuy
vậy vẫn khác rõ với kiểu giọng thơ khẩu hiệu mà ở đây ẩn chứa nỗi
đau đớn trước những mầm sinh linh bị hủy diệt bên cạnh những xác
mẹ, xác bà. Tội ác và bản chất phi nghĩa bị phơi bày đến tận cùng qua
một loạt hình ảnh chạm đáy tình người cả những người Mỹ tiến
bộ lúc đó trên đất nước có tượng đài Nữ thần Tự do sừng sửng cũng phải
lên tiếng nói! (một năm sau, bài “Bé thơ Sơn Mỹ” đã được dịch ra tiếng
Anh với tựa “Child of My Lai” đăng trong tuyển tập thơ “We Promise
one another” (Chúng tôi cùng ước nguyện), được xuất bản tại Mỹ bởi The
Indochina Mobile Education Project-Wasshington, D.C.-1971) ( Bđd – nhà
báo Lê Văn Nuôi)
“…Bé sinh ra như mới
được trổ mầm/ Nhờ nhựa sống của thân cây dân tộc/ Bé nào biết ông cha là rễ gốc/
Nào có hay bà mẹ là nhựa đường/…Bé có ngờ đâu mấy chục triệu người thương/
Chúng giết bé như diệt mầm cổ thụ...”.
“…Lời vĩnh biệt,
nhưng không là lời sau hết/ Vì các bé sẽ sinh nhiều nữa, nhiều hơn/ Sẽ lớn lên
như Phù Đổng để trả ơn/ Cho cả dân tộc không sờn lòng nuôi bé/ Như cổ thụ muôn
đời sừng sững thế/ Những mầm xanh sẽ trổ rậm trên cành…”
Trở lại với tập thơ Đêm lên cơn dài, nhiều
tác giả trong tập bình luận gặp nhau ở điểm chung chọn, trích dẫn những bài thơ
mà anh bày tỏ những ưu tư đầy dằn vặt về thân phận tuổi trẻ “bị lưu đày
trên chính quê hương mình” (Thơ và sự lương thiện – Nguyễn Miên Thảo),
đang tồn tại một kiếp người tang thương, không mùa xuân,
không mặt trời, hiện tại, tương lai bị đánh cắp… (bài
thơ cho hôm nay, người và thành phố, xứ nóng, chưa tới, tâm trạng, nghĩ tới em,
hai tôi, khóc, nước mắt, tù 1, 2, 3…). Cảm thức nhân văn, khát vọng
nhân văn là dòng cảm xúc chủ đạo của tập thơ, ngay cả khi anh thể hiện
chủ đề tình ái, tình yêu. (chia xa, em sang năm, tỏ tình, dòng tóc, khu
vườn, mưa, hoang mang…)
…tôi không muốn gieo điêu tàn sỏi đá
nên nỗi buồn tuyệt vọng đã sinh sôi
thành mặc cảm giữa lòng đời man trá
chỉ tình yêu còn biết thở trong tôi… (khu vườn)
…khuất em trong mắt đuối mềm
hay tình yêu rụng đầy thềm hoang vu
cánh hoa máu giữa mịt mù
anh xuôi thân thế hoài u tủi hờn (hoang mang)
…anh đấu tranh giữa giọt sáng trong mây
thì xương máu thì em thành con nước
đất mềm dẽo mọc tóc rừng xanh mướt
phải không em mưa nắng của miền nam (tỏ tình)
và còn nhiều nữa…
- Năm 2011, trong hồi ức về bài “Bài thơ bắt đầu” mà
anh tặng năm 1969, một kỷ niệm nhỏ, đẹp và khó quên, tôi có nhận
xét về thơ của anh, “…Thơ phải đến với đời bằng một diện mạo mới, lắng
sâu giá trị nhân văn trong tứ thơ, trong từng con chữ sản sinh từ hồn thơ ray rứt,
đau đau với đời không thôi”. (Triệu Từ Truyền và Bài thơ bắt đầu,
Nguyễn Nguyên Phượng). Cảm nhận này chắc hẳn chưa bao quát con
người thơ, một tư duy sáng tạo thơ chưa bao giờ thôi tiến về phía mời gọi của
nghệ thuật thi ca. Hay nói về anh một cách chí tình như “cô gái Huế”,
bạn thơ đồng niên thời được gởi tặng tạp chí Bộ Lạc Mới năm 1965,
“..thơ là hơi thở của anh, không có thơ Truyền chết. Thơ đã bức tử anh để cho
anh một cuộc sống khác đầy hân hoan, thống khổ trong hạnh phúc. Nếu không có
thơ, không mê đắm thơ, anh phải đi con đường khác không lối quay về…” (Bđd-
Nguyễn Miên Thảo). Và tôi cũng rất thích cách dùng chữ của nhà thơ
Đoàn Vị Thượng khi lấy điều sở nguyện bi tráng của Boris
Pasternak để nói về hành trình thơ của anh, Triệu Từ Truyền, “Làm thơ đến
tận cùng đâu phải chuyện chơi”(Bđd). Định vị từ tập Đêm lên
cơn dài (1965) anh gởi đến người yêu thơ các thi phẩm Bên
dòng Măng thít (1986), Dật dờ trong sương (1990), Mảnh
vỡ hồn Nhiên (1994), Va chạm hư không (1999), hai tập tuyển thơ song ngữ (2001
và 2010) và mới đây là Lục bát Triệu Từ Truyền. Nếu tính từ
năm 1962, sáng tác bài thơ “Quê hương”, anh đã trãi đời, đắm hồn
vào cõi huyền hoặc thi ca 50 năm!
50 năm cho cuộc hành trình lịch sử và thơ - hành trình ứa
lệ máu khát vọng nhân văn. 50 năm và giờ anh đang “trước
đèn” ở Thụ triết trang hay đang lang bạt dọc
đường gió bụi phù sinh? Nhưng chắc hẳn một điều rằng những “hồng cầu
thơ” vẫn lặng thầm sinh nở từng giây, từng khắc trong tâm thức anh.“Bằng
tài năng và liên tục sáng tạo ngôn ngữ bằng tâm thức, bằng chính nghiệp thơ của
mỗi người được dòng năng lượng tâm linh chuyển tải…” (Sđd - Triệu Từ Truyền),
anh vẫn “chiến đấu” vì Chủ nghĩa Nhân văn mang
hồn cốt triết minh triết phương Đông cho nền Văn học Việt Nam.
6. Tập bình luận Triệu Từ Truyền giữa
đôi bờ tri thức và tâm thức đầy đặn với 30 bài viết của những cây bút có
tầm và có tâm gần xa các vùng miền đất nước, yêu mến soi rọi từ nhiều
phía tri thức, nhiều chiều thấu cảm về 50 năm - hành trình
thơ Triệu Cung Tinh – Triệu Từ Truyền.
Còn tôi chỉ là một người bạn thơ, yêu thích thơ anh từ 40
năm về trước và giờ đây, muốn là “con mắt xanh” khi đến với
thơ anh, một đời thơ luôn bỏng cháy khát vọng đổi mới thơ mình và truyền
lửa đổi mới Thi ca. “…Thơ là luôn lập kỷ lục mới, là tinh thể kim cương, thơ
còn tỏa sương sớm bao quanh độc giả. Hơi sương ấy có thấm vào da thịt nhiều ít
là tùy lớp áo dày mỏng của khách thăm vườn thơ” (Sđd - Triệu Từ Truyền).
Chỉ mong tôi và nhiều, có thêm nhiều khách thăm
vườn thơ thấm vào tâm hồn hơi sương đồng điệu theo cách nói khá lý thú
của anh về mối quan hệ tri âm giữa bạn đọc và thơ ca. Mong là được như vậy…
TT Gia Ray -
TP.HCM, đầu năm 2013
NGUYỄN NGUYÊN PHƯỢNG
Theo NVTPHCM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét