Nhà thơ Thanh Thảo
Trên con đường
tìm kiếm cái mới, nhà thơ
Thanh Thảo không bao giờ là người ngoài cuộc. Trong khi anh đang trăn trở thể
nghiệm thì không ít người chỉ
muốn anh quay trở lại với những giá trị đã làm nên tên tuổi của anh thời
chiến tranh. Nhưng Thanh Thảo không
chịu ngủ quên trên thành tựu của những giá trị cũ.
Bằng tài năng
thơ và một nỗ lực không chịu bất lực của mình, mấy chục năm qua, Thanh
Thảo vỡ vạc chính anh ở mảng đời sống tâm trạng của một người lính đã thấm đẫm
nỗi đau trận mạc và mảng đời sống thơ đích thực trước đây anh chưa có thời gian
khai phá. Tôi cho rằng trong con - người - thơ của Thanh Thảo, một nội lực sáng
tạo lớn luôn thôi thúc anh, luôn cày xới anh, luôn vắt kiệt anh ở những bến bờ
mới.
“Chân đất” là trường ca thứ 10 của Thanh Thảo. Trường ca này độc đáo bởi nét nghĩ, nét suy
tưởng, nét cấu trúc ngôn ngữ thi ca của riêng anh đã quật vác lên những
nét thơ mới như những người nông dân
tay trắng, chân đất ở Quảng Ngãi quê anh đã vác đá xây nên Trường Lũy tự thủa nào.
Không hiểu vì
sao, tôi chợt liên tưởng, cái nguồn
mạch trường ca dồi dào và sâu lắng của Thanh Thảo có thể cũng đã bắt nguồn
từ mạch sống trường tồn của dãy
Trường Lũy nơi quê hương anh vì
“Địa linh thường sinh ra nhân kiệt”. Và, nếu không sinh ra ở miền đất nghèo khó
mà quật khởi ấy, không được nuôi dưỡng bởi nhân dân hào hùng và đau thương ấy
thì làm sao Thanh Thảo có thể viết được những trường ca như: “Những người đi tới
biển”, “Trẻ con ở Sơn Mỹ”, “Những ngọn sóng mặt trời”, “Khối vuông ru-bích”,
“Đêm trên cát”, “Metro”…
Lần này, bằng trường ca “Chân đất”, Thanh Thảo đã hướng chúng ta vào một hệ - quy - chiếu thi ngữ mới với cấu trúc của các
chương như các “Chân…Thơ” thật độc đáo, găm vào trí giác người đọc, từ “Chân
tre” tới “Chân ruộng”, từ “Chân mưa” đến “Chân núi”, từ “Chân cò”, “Chân
tháp”, “Chân mây” tới “Chân sóng”, “Chân lũy”.
Và, từ những đường nét kiến trúc khá đặc biệt ấy, anh dựng
nên ngôi nhà trường ca “Chân đất”
theo giọng điệu riêng mà Thanh Thảo dành cho tập thơ này: Uyên thâm mà phóng
túng, dân dã mà hiện đại, tối giản mà sâu sắc, bình dị mà đa dạng… Nếu ở
“Chân tre”, anh thầm gọi đất đai máu thịt: “Quê hương ơi làm sao tôi sống/ thiếu Người/ làm sao tôi
thành một bóng cây/ nho nhỏ/ nếu trước nhà tôi, ngoài ngõ/ không rậm rì
rậm rịt một bóng tre” thì ở “Chân ruộng”, anh phác thảo chân dung cuộc đời:
“Người già quê tôi/ tuổi ngót trăm ngày tăm xị rượu/ lưng còng song song mặt đất/
dáng thảnh thơi như một chiếc tàu bay/ bay chậm chậm qua mây mù u uất”.
Khi ở “Chân mưa”,
Thanh Thảo cảm nhận đau đáu về mẹ: “những dấu chân mưa bờ tre phấp phỏng/ bóng
bóng phập phồng/ tôi ngồi nhìn mẹ tôi xay lúa/ tôi không biết và tôi
không nghĩ/ đời mình như chiếc cối
xay tre” thì ở “Chân núi”, anh lại thấm thía sứ mệnh của người cầm bút: “như người xuyên rừng nhãng
bước chân đi/ cứ chăm chăm phát cây
mở lối/ gánh nặng là chữ/ muỗi vắt là chữ/ mồ hôi là chữ/ đói bụng là chữ/ buồn
vô ngôn”.
Nếu ở “Chân
tháp”, anh ngược về những thế kỷ trước của văn hóa Chàm, để chiêm nghiệm cái đẹp:
“tôi kính dâng lên tổ tiên mình/ chiếc bát mẻ nằm lặng bên chân tháp/
cái bát người con trai Việt/ lăn lóc
tìm cặp mông người con gái
Chàm/ như tìm nơi trú ngụ/ lăn
lóc tìm mênh mang vó ngựa/ lăn lóc tìm ấm êm bếp lửa/ lăn lóc tìm đức
tin” thì ở “Chân lũy”, anh đã cùng người dân quê mình vác đá xây Trường Lũy: “Đá cõng đá cõng đá/ mồ hôi
cõng mồ hôi/ tháng năm cõng tháng năm/ người cõng người/ xây nên Trường Lũy/ cùng mọi người tôi vác đá
xây lũy/ cùng mọi người tôi vác tự do vác tình anh em qua lũy/ cùng mọi
người tôi ném những trái ngang khỏi
lũy/ chúng tôi không xây Vạn Lý Trường Thành/ chúng tôi đếch cần hảo hán/ chúng tôi tươi vui bình thản/
dù chân lũy tới chân trời/ xa lắc chơi vơi”.
Đặc biệt, ở
“Chân sóng”, những câu thơ đau đớn của Thanh Thảo như những vết bầm giập trên
cơ thể đất nước làm chúng ta xúc động: “lặng im như đá mồ côi/ họ dạy anh
tình yêu không lời/ không thể thiếu Hoàng Sa/ không thể sống thiếu biển/
anh yêu biển mà anh đứng trên bờ/ anh yêu nước mà không biết bơi/ làm sao anh hiểu/ có những người lính đảo/ trần lưng
trước mưa đạn quân thù”.
Trong cuộc viễn
du vào miền ngôn ngữ cách tân, có khi người làm thơ cảm thấy mình đang
bay vào cái vùng bóng tối riêng của một miền ánh sáng để nhìn ngược lại vùng thực tại chúng ta đang sống. Trên cái
đường biên mập mờ hai chiều tối - sáng ấy, chúng ta sẽ có những phát hiện mới về
các giác cảm, về không gian, về thời gian, về sự tồn tại của con người. Và ở
trong vùng tối thẳm sâu vô thức ấy, những câu thơ chợt đến như một giấc mơ và một
mình nó làm một cuộc viễn du vượt ra khỏi mọi thể chế về ngôn ngữ để độc hành trong sáng tạo.
Theo tôi,
Thanh Thảo là một tài năng không chịu đựng nổi những con đường mòn cũ,
quen thuộc trong thi ca. Và bởi tính năng động trong sáng tạo của con người thơ
anh luôn bật lên những ý tưởng, những
khát khao khám phá. Sau khi đọc nhiều bài thơ của Thanh Thảo, tôi cảm thấy hình
như Thơ không phải chỉ đánh thức
Thanh Thảo mà chính Thanh Thảo đã đánh thức chúng ta bằng một cái nhìn
thành thật đến cay đắng. Bởi một lẽ trên thế gian này, trong cuộc hành trình
dâu bể này: “Không ai tái chế nước mắt
nỗi đau, dù để làm nên những trang sách”. Không hiểu vì sao câu thơ này thi thoảng lại rung động trong tôi một
thứ gì đấy mằn mặn, nhói đau như nước mắt.
Dù tìm tòi, cách tân kiểu nào đi nữa thì thơ Thanh Thảo vẫn là một dòng nội tâm đậm đặc
những suy tư trằn trọc với đời sống này, quê hương này, lớp người này, tâm thế này và trong một đêm sâu nào đó, dưới một
bầu trời sao nào đó hoặc trong một ngày nắng chói chang nào đó, bên một bát
khoai khô nấu mật, bên một người mẹ gầy như ban mai… vẫn còn thao thức một
Thanh Thảo luôn canh cánh trước những
bần hàn, nghèo khó của quê hương.
Tập thơ “Metro”
của Thanh Thảo là tập trường ca thứ 9 (trong số 15 tập thơ) đã xuất bản
của anh. Có thể nói, Thanh Thảo đã lập một kỷ lục ghi nét về trường ca trong thơ Việt Nam đương đại. Trong đó, phải
kể đến tập trường ca “Đêm trên cát” trước đây của anh đã từng được giới
phê bình và công chúng thơ coi như một
đỉnh mới của nghệ thuật thơ trường ca trong suốt mấy chục năm qua.
Lần này, với
trường ca “Metro”, nhà thơ Thanh Thảo đã làm một cuộc hành trình trở lại
với quãng thời gian trai trẻ của anh trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt
ở Trường Sơn với một cái nhìn có độ lùi sâu hơn và chiêm nghiệm hơn về số phận con người và đất nước.
Ngay ở chặng
ga đầu tiên của “Metro”, hình ảnh những người lính trong “chuyến tàu trận mạc” đã
vĩnh viễn nằm lại dưới một Trường
Sơn đại ngàn lại nhắc nhở chúng ta về những năm tháng thương đau ấy. Những người
lính trẻ đã đi vào chiến tranh, đi vào cái chết với một chân dung hồn
nhiên và trong trẻo nhất của thế hệ mình: “không ai đủ sức trả lời/ dù còn cả
cuộc đời trước mặt/ năm 26 tuổi tôi “thử hỏi về hạnh phúc”/ với những hồn nhiên
trong trẻo nhất/ nhưng hạnh phúc là
gì tôi không biết/ là cái bóng của lặng im/ là cái bóng của cái cái bóng
cây bằng lăng cây bồ đề/ nửa đêm chợt thức giữa rừng già/ một tiếng gì khẽ rơi/ hạnh phúc”.
Câu hỏi về hạnh
phúc trong những năm tháng ấy mãi mãi nằm lại với tuổi trẻ của những người đã lặng lẽ dâng hiến máu xương mình trong cuộc chiến tranh giải
phóng: “Nhưng hạnh phúc là gì?
câu hỏi này của chị Dương Thị Xuân
Quý/ người hỏi không thể tự trả
lời/ vì chuông đã rung/ hết giờ”. Một câu hỏi chưa có lời đáp cứ cứa mãi vào tâm khảm những
người còn sống hôm nay.
Những năm sau chiến tranh, một Thanh Thảo với những tìm
tòi mới trong thơ lại bắt đầu khuấy
động thi đàn. Có người đánh giá cao những đóng góp của anh trong mảng thơ viết
về chiến tranh, nhưng cũng có người cho rằng mảng thơ sau chiến tranh của anh với
những nỗi đau đời sống thường ngày, với những trăn trở cách tân cho thấy một diện
mạo sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về thơ Thanh Thảo.
Tôi thì
cho rằng ở giai đoạn nào cũng vậy, Thanh Thảo vẫn là một tài năng thơ đích thực
với một trái tim luôn nồng nhiệt, chân thành, chia sẻ với mọi mất mát và bất
bình trước mọi giả trá, bất công và
bạo lực. Có ai đó nói, trong suốt ba chục năm qua, con người thơ của Thanh Thảo
vẫn là con người sáng tạo của những trường ca lớn, tôi thấy điều ấy không sai,
vì có thể hơi thở máu thịt
chính của đời thơ anh là hơi thở của trường ca. Nhưng tôi lại thấy một điều gần
đúng, cũng trong thời gian trên, với những tìm tòi bền bỉ nhằm cách tân
thơ Việt, Thanh Thảo vẫn là một nhà
thơ đáng chú ý của những bài thơ nhỏ rất đặc sắc, hiện đại.
NGUYỄN VIỆT CHIẾN
Nguồn: VNCA
XIN ĐỌC THÊM:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét