Con đường thơ ấy có hai làn song song ngay từ khởi thủy:
dân tộc và hiện đại. Chỉ có điều, không phải đấy là hai làn ngược chiều. Có một
nỗ lực đổi mới chung làm thành nền tảng cho cả hai làn đường ấy: những cách tân
về vật liệu và hình thức...
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
Những con thuyền sinh ra từ rừng sâu
Mang hình lá đổ về biển cả
Cánh buồn nâu như những bàn tay nhỏ
Vẫy con, vẫy con về với biển
Nơi dòng sông vừa gặp vỡ òa
(Những con thuyền sông Đáy, trong Ngôi nhà
mười bảy tuổi, 1990)
Xa…
Xa ngơ ngác con đường
Người đi, người đi, người đi. Vừa bước vừa vấp
(Tha phương, trong Sự mất ngủ của lửa,
1992)
Rồi sau đó trong bài hát của con gà trống đất nung,
tôi với người mỗi người mỗi ngả
Nấc lên, cười lên đẩy chiếc xe số phận một bánh lên đường
(Với chiếc xe một bánh, trong Những người
đàn bà gánh nước sông, 1995)
Và hơn thế,
Ra đi… đó là ánh sáng
(Nhịp điệu châu thổ mới, 1997)
Ra đi từ hồ nước cũ
Con đường
Con đường
Con đường
(Lễ tạ, trong Bài ca những con chim đêm,
1999)
Hãy cho ta được lặng im, hãy để ngôn ngữ ta chảy âm thầm
và nóng bỏng như máu trong ta. Hãy để ta đớn đau, hãy để ta hành hình chính ta.
Hãy để ta đi. Con đường ta vô tận.
[…] Ngày nào cũng có đêm tối, đấy là nhà tù của con,
tòa án của con. Đấy là ác mộng của con, vô vọng của con, trống rỗng của con.
Nhưng đấy là chiếc gương trung thực nhất của con. Đấy
là nơi con nhìn thấy con đường của cơn mơ.
(Cây ánh sáng, trong Cây ánh sáng,
2008)
Có một con đường như thế, con đường của sự ra đi và trở về,
của đêm đen và ngày rạng, của hiện thực và mơ mộng, nối kết các tập thơ của
Nguyễn Quang Thiều. Làm nên lộ trình thơ Nguyễn Quang Thiều.
Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Quang Thiều rút bài
thơ Lễ tạ từ tập Bài ca những con chim đêm đặt
lên đầu tập Châu thổ (thơ tuyển lần thứ nhất, 2010). Con
đường/ Con đường/ Con đường/ Dắt ta về hồ nước cũ. Đó là con đường trở về
trong tâm tưởng, về không gian của tuổi thơ, quá vãng của dòng họ, nguồn cội của
làng nước, nhưng không phải để định cư tại đó, mà để thúc giục bước lữ hành. Ra
đi từ hồ nước cũ/ Con đường/ Con đường/ Con đường.
1. Tôi đã thử đi tìm một cách Nguyễn Quang Thiều tự định
nghĩa bản thân qua tập Châu thổ. Nói tự định nghĩa bởi, thứ nhất,
Nguyễn Quang Thiều tự tuyển chọn thơ cho mình; và, thứ hai, tự cấu trúc cho tập
thơ ấy. Quả thật, ở đấy, xuất hiện một ý hướng rất rõ ràng. Có vài trường hợp
không thực sự biểu lộ rõ rệt ý hệ của tác giả: việc thay đổi một phần hoặc thêm
định ngữ cho tên bài thơ, như Những đám mây khổng lồ thành Những
đám mây vàng, Tưởng niệm thành Tưởng niệm Joseph
Brodsky (trong tập Nhịp điệu châu thổ mới); đổi tên một số
bài thơ (tên mới hay phục hồi tên khởi thủy?) như Bản khai sinh lần thứ
2 thay thế cho Không đề (trong tập Những người
đàn bà gánh nước sông), Thiên nga thay thế cho Cái
chết (trong tập Bài ca những con chim đêm); trừ trường hợp Cầu
tự thay thế cho Boston 1911(trong tập Nhịp điệu
châu thổ mới), chúng tôi sẽ trở lại hiện tượng cá biệt này. Các trường hợp
mang tính ý hệ rõ ràng sẽ cho ta một hình dung về Nguyễn Quang Thiều qua chính
cái nhìn của tác giả. Một, loại bỏ một số bài thơ: ở Ngôi nhà mười bảy
tuổi loại 22/27 bài, ở Những người đàn bà gánh nước sông loại
2/27 bài (các tập Sự mất ngủ của lửa, Nhịp điệu châu thổ mới,
Bài ca những con chim đêm, Cây ánh sáng được giữ nguyên; không tuyển
chọn trường ca, gồm: Những người lính của làng, 1994, và Lò
mổ, chưa xuất bản). Hai, bổ sung bài thơ lẻ: thêm Bức thư vào
liền sau Bản khai sinh lần thứ 2; và đặc biệt, thêm Dâng
trà vào liền sau Lễ tạ.
Khảo sát trên đem đến những nhận định gì? Ở trường hợp thứ
nhất, nếu thay Boston 1911 bằng Cầu tự, bài thơ mất
đi một chỉ dẫn thời gian để bớt đi một nét nghĩa, nhưng bù lại, trở nên mờ đục
và đa nghĩa hơn rất nhiều dù chỉ mất đi một chỉ dẫn. Thứ nữa, trong việc đọc
liên văn bản, Boston 1911 với bài thơ liền sau (Boston 1994)
dễ gây hiểu lầm: đồng nhất nhân vật trữ tình trong hai bài; trong khi, vẫn có
thể cắt nghĩa chủ thể nhà thơ đến Boston, có một xúc cảm tức thời (1994) và một
vọng tưởng về quá khứ (1911). Sự thay đổi này, vì vậy, khiến cho bài thơ trở
nên mông lung, nhân vật trữ tình trở thành phiếm chỉ, như cái cách một người viết
nào đó đã cho rằng, câu kết của bài thơ “Người đi cầu tự cho tương lai của xứ sở
mình”, là một khẳng định sứ mệnh cao cả của nhà thơ! (Thêm một dấu ngoặc đơn để
nói rõ, “nhà thơ” ở đây là danh từ chung, chứ không phải đại từ thay thế cho
Nguyễn Quang Thiều). Ở trường hợp thứ hai, rất hiển minh, Nguyễn Quang Thiều
chưa có ý định tổng kết bản thân trên phương diện trường ca. Ở trường hợp thứ
ba, bài Bức thư cũng có chung một trường ngữ nghĩa với bài liền
trước, Bản khai sinh lần thứ 2, những khế ước tình yêu qua con chữ.
Trường hợp thứ tư vừa như một giải thích cho nhận định về trường hợp thứ ba, vừa
bộc lộ việc định nghĩa bản thân của Nguyễn Quang Thiều. Khách thể mà nhà thơ hướng
tới trong Dâng trà là người cha của mình (Thưa cha, con đã
dâng trà); khi được đặt liền sau Lễ tạ, mà khách thể nhà thơ hướng
tới là cố hương (hồ nước cũ, nơi những người thân yêu đã mất, những
không gian xưa cũ đã xa xôi), nghiễm nhiên chiếm một vị trí trang trọng, mang một
thông điệp, một ý nghĩa trong thế giới thơ Nguyễn Quang Thiều: xác định không
gian và cảm hứng của tuyển thơ lần thứ nhất. Đó là miền “châu thổ” và tình yêu
rứt ruột với miền đất ấy. Bởi nếu ta gạt sang bên cạnh tùy bút Trong
căn phòng của một người bại liệt được tác giả trích dẫn “thay lời tựa”,
như một định hướng người đọc, chiếu theo đặc trưng của thể tựa, bạt; thì tuy vẫn
là thơ như những bài thơ khác trong tập tuyển, Lễ tạ và Dâng
trà lại có một vị trí đặc biệt, do tính chất cá biệt của nó (được tách
ra từ một tập thơ, và được bổ sung từ thơ lẻ), được đặt lên vị trí trang trọng
mở tập, một xác định không gian cố hương, một xác định khách thể hướng tới là
người thân yêu (người cha ở đây như một hoán dụ), cũng có phẩm chất như
một định hướng người đọc. Cũng còn bởi, Dâng trà được viết
bằng thể lục bát, mà ngoài đó, chỉ có thêm một bài nữa được tuyển thuộc thể
này: Bây giờ đang cuối mùa đông(mà một bài lục bát còn lại trong tập Ngôi
nhà mười bảy tuổi (Mùa hè trên vạt cỏ), và toàn bộ những bài
thơ có vần trong tập thơ đầu tay này, đều bị tác giả gạt bỏ, dù là “thuở ban đầu
lưu luyến”): Dâng trà được viết để hướng tới người cha kính
yêu, Bây giờ đang cuối mùa đông được viết để hướng tới những
người phụ nữ làng Chùa thân yêu, cái ý hướng ấy đã níu hai bài thơ “lạc thể” mà
không “lạc điệu” này ở lại tập tuyển, như một tuyên ngôn, một tôn chỉ của tập
thơ. Quê hương và những người thân yêu là chủ đề xuyên suốt Châu thổ,
là khởi điểm và cũng là đích đến, của hành trình thơ lần thứ nhất mà Nguyễn
Quang Thiều tự đặt ra cho mình.
Trong chủ ý ban đầu, để đi tìm Nguyễn Quang Thiều trong
cái nhìn của chính tác giả, tôi muốn hướng đến thơ Nguyễn Quang Thiều
ngoài Châu thổ. Nhưng ở đấy tôi không có gì nhiều, ngoài 22 bài
trong Ngôi nhà mười bảy tuổi và 2 bài trong Những người
đàn bà gánh nước sông (là Những người đàn bà mùa đông và Trong
giấc ngủ muộn). Chúng tôi cũng chưa đủ điều kiện để sưu tập các bài thơ lẻ.
Giải thích điều này như thế nào? Ở Những người đàn bà gánh nước sông, ngoài
lý do, đây thực sự không phải hai bài thơ xuất sắc, khó tìm được lý do thuyết
phục cho việc chúng không hiện diện trong tập tuyển, nếu như không tính đến lý
do nhầm lẫn hay lỗi kỹ thuật ấn loát, vì trong tập có xuất hiện trường hợp: bài
thơ Trong khu vườn hoang tàn của quyền lực ở chính văn được
ghi ở mục lục là Gửi một ông Vua (?!). Phần bị loại bỏ
trong Ngôi nhà mười bảy tuổi thì khá sáng rõ: Nguyễn Quang Thiều,
về mặt hình thức, từ chối lối thơ nương vào vần luật; và, về mặt tư tưởng, từ
chối những phát ngôn đèm đẹp dễ bị đồng hóa, dễ tìm thấy ở những nhà thơ trước
và cùng thế hệ. Lựa chọn cho mình xuất phát điểm từ Sự mất ngủ của lửa,
cùng một số chỉnh sửa không nhiều như đã chỉ ra ở trên, Nguyễn Quang Thiều định
vị bản thân trong tư cách một nhà thơ đổi mới dù cảm hứng thơ
vẫn phát xuất từ những gì gần gũi, thân thuộc.
2. Nếu đi tìm nỗ lực đổi mới thơ của Nguyễn Quang Thiều,
có thể tìm thấy biểu hiện rõ rệt nhất ngay trong tập thơ Sự mất ngủ của
lửa. Gần như toàn bộ các bài thơ trong tập đều được sáng tác trong mấy
năm,1990-1992, tức trong làn sóng Đổi mới lần thứ hai. Làn sóng lần thứ nhất, từ
1986-1989, bắt đầu bằng Đại hội Đảng VI đến khi Đại hội IV Hội Nhà văn kiện
toàn tổ chức xong, là giai đoạn mà đổi mới được lĩnh xướng bởi những nhà lãnh đạo
văn nghệ. Chuyển qua làn sóng thứ hai, bắt đầu bằng việc công bố các sáng tác của
Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường và kết thúc bằng việc cuộc
tranh luận quanh Lý luận và Văn học (Nxb. Trẻ, 1990) của Lê Ngọc
Trà dừng lại mà không ngã ngũ, vai trò lĩnh xướng đổi mới được chuyển sang
chính nhà văn, bộc lộ qua chính sáng tác và diễn giải của họ, với tất cả những
đột phá và giới hạn tự thân. Đổi mới lắng lại cho đến tháng 9/1993, khi Ban Chấp
hành Hội Nhà văn quyết định trao Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1993 cho Sự
mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều (cùng với Xúc sắc mùa
thu của Hoàng Nhuận Cầm, Nxb. Hội Nhà văn, 1992); thì gần như ngay sau
đó, cộng hưởng với sự trở lại của các nhà thơ Nhân văn – Giai phẩm (Trần Dần,
Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, và phần nào đó, cả Hoàng Hưng, xuất hiện trở
lại với mật độ dày dặn), hiện tượng Nguyễn Quang Thiều góp phần dấy lên một cuộc
tranh luận kéo dài về thơ hiện đại và tính hiện đại trong thơ. Ở đây nảy sinh một
vấn đề, tôn chỉ ban đầu của Đổi mới (tự do và dân chủ cho văn học) nhạt
dần, dù tiến tới một viễn tượng văn nghệ tách rời chính trị không phải là một mục
tiêu kém hấp dẫn, để nhường chỗ cho một diễn ngôn văn học mới, nơi ghi nhận sự
gắn bó ngày càng chặt chẽ giữa văn học với dân tộc và nhân loại qua hội nhập và
toàn cầu hóa, có thể gọi một cách ước lệ là diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa.
Chính tính chất “Tây hóa” của những bài thơ trong Sự mất ngủ của lửa đã
đẩy Nguyễn Quang Thiều vào sân khấu chính của sự đổi mới văn học lúc này, đó
cũng là điều xảy đến với Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng, khi mà Bảo
Ninh và Nỗi buồn chiến tranh của ông đã bị loại khỏi không
gian ấy. Lựa chọn giữa cái nhìn khác về dân tộc và bổ
sung thêm cái nhìn khác cho dân tộc, phương án thứ hai khả dĩ dễ được chấp
nhận hơn. Dù rằng, dẫu có may mắn là được chấp nhận, nhà văn giai đoạn này vẫn
không hề nguôi ngoai vấn đề dân tộc. Nguyễn Quang Thiều đã trở lại ngay với niềm
canh cánh thiết thân ấy trong Những người đàn bà gánh nước sông, và
sau đó không lâu, Nhịp điệu châu thổ mới. Tôi sẽ còn trở lại vấn đề
này ở phía sau.
Sự ra đời của Sự mất ngủ của lửa, như vậy là,
có thêm được sức mạnh của thời điểm xuất hiện. Vẻ “Tây hóa” đã ngay lập tức gây
sự chú ý và phân hóa công chúng tiếp nhận, khi vấn đề bản sắc văn hóa ngày càng
được chú trọng như một phản ứng có tính nước đôi của việc văn học và dân tộc
ngày càng tiến sâu hơn nữa vào quá trình quốc tế hóa. Điểm thu hút sự chú ý dư
luận trong thơ Nguyễn Quang Thiều, đầu tiên và trước nhất, ấy là ngôn ngữ thơ.
Nguyễn Quang Thiều làm mới thơ mình ở hai điểm then chốt: một, sử dụng
ngôn ngữ không đặc tuyển cho thơ; hai, không sử dụng những quy phạm
vần luật thơ truyền thống. Tức là làm một cuộc cách mạng về vật liệu và
hình thức thơ. Bởi thế, khi đã từ chối ngôn ngữ và quy phạm truyền thống, thơ
Nguyễn Quang Thiều cũng không còn nương vào mắt chữ, cấu trúc câu thơ, kết cấu
bài thơ, hay cái hồn thơ mà cấu tứ mang lại. Thơ Nguyễn Quang Thiều, ấy
là một thế giới chữ, một hiện thực chữ. Cái hiện thực thứ hai này,
được tạo bởi ngôn từ không suồng sã hóa cũng không thi hóa, để trở thành thế giới
hiện sống hay thế giới nghệ thuật thơ, làm nên sức mạnh và vẻ đẹp thơ Nguyễn
Quang Thiều.
3. Hiện thực chữ trong thơ Nguyễn Quang Thiều, bắt đầu từ Sự
mất ngủ của lửa, hiện lên khá rõ ràng qua hai dạng thức: hiện thực
trong suy tưởng và hiện thực trong mơ tưởng. Quan sát đời
sống bằng con mắt suy tư cá nhân rồi sắp đặt nên thơ tạo thành dạng thức hiện
thực thứ nhất, chép lại những giấc mơ làm thành dạng thức hiện thực thứ hai. Dạng
thức thứ nhất phổ biến trong Sự mất ngủ của lửa, làm nên sự mới lạ
của tập thơ; dạng thức thứ hai mới nhen nhóm, nhưng sau sẽ trở thành một bút
pháp quen thuộc trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Khởi đầu là vậy, về sau, trở
thành cấu trúc suy tưởngvà cấu trúc giấc mơ, như một đặc
trưng thi pháp Nguyễn Quang Thiều.
Có thể nói, chính sự quan sát, suy tưởng và trình bày kết
quả của nó làm nên sự độc đáo đầu tiên mang tên Nguyễn Quang Thiều, như
trong Chuyển động, Trong quán rượu rắn, Bầy kiến qua bàn tiệc,… đặc
biệt là trong Trên đại lộ và Câu hỏi cuối ngày.
Trước Nguyễn Quang Thiều, chưa ai viết những câu thơ như thế này:
Những người đàn bà vác dậm đi thành một hàng dọc về
phía bên phải sát mép đại lộ
Người họ bọc kín bởi những lớp vải nâu và đen
Chỉ đôi tay, đôi chân và đôi mắt lộ ra
Nhưng tất cả cũng một màu như thế
Những chiếc dậm đan bằng tre trên vai họ như vầng
trăng khuyết vớt từ bùn lên
Những cái giỏ bên hông như những cái đầu trọc lắc lư
theo nhịp bước
Bóng họ đổ xuống đường thành những vũng đen
Họ lặng lẽ đi như đội quân thất trận
Cán dậm chúi xuống mặt đường - Những nòng súng hết đạn
Những tấm áo rách sặc mùi bùn phơi trong lòng dậm như
cờ ngày việc làng giã đám
Vảy cá bám trên áo họ lấp lánh những tấm huân chương
Họ chẳng cần tung hô, cũng chẳng đợi đón chào
Như mây trước cơn giông trôi nặng nề, oi bức
Những người đàn bà vác dậm đi thành một hàng dọc về
phía bên phải sát mép đại lộ
Họ đến từ đâu và sẽ đi đâu
Với mùi tanh cua ốc tỏa quanh người
Và cũng chưa có ai day dứt đến ám ảnh trần tục như thế
này:
Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong
ngày
Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên
Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào
Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai áo quần sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.
Những bài thơ như thế này thường dội vào người đọc một cảm
xúc dữ dội, người yêu mến sẽ lấy làm thích thú vì nhà thơ nói hộ được tận đáy
lòng mình, bằng một lối nói rất lạ mà rất chính xác, người không yêu mến thì dễ
dàng cho đấy là “phản thơ”.
Thơ Nguyễn Quang Thiều, ở dạng thức thứ hai, dễ lay động
lòng người hơn. Bởi nỗi ám ảnh khôn nguôi, hiện lên trong nhiều bài thơ, là
tình yêu đắm đuối gia đình, làng nước, cánh đồng, dòng sông, côn trùng, cây cỏ,
vật dụng hàng ngày,… Chúng thường trực trong tâm cảm nhà thơ, mà khi được trở về
gần gụi thì lấp lánh những vẻ đẹp thuần phác, khi xa xôi thì luôn vang vọng
trong những giấc mơ gọi về quá vãng. Trong thơ, Nguyễn Quang Thiều hay nhắc nhiều
đến cơn mơ, mơ mộng; và nhiều bài thơ có lẽ cũng được hình thành từ những giấc
mơ như thế. Hiện thực trong bài thơ Âm nhạc tuy rất rõ ràng, cụ
thể, nhưng hoàn toàn không phải là hiện thực đời sống được quan sát, mà là hiện
thực được hiện lên trong tâm cảm nhà thơ:
Cỗ xe tang trôi mãi vào cơn mê
Những con rồng gỗ vảy vàng bay lên trong tiếng kèn, tiếng
trống
Con nhón gót, cỏ may biền biệt trắng
Có ai khẽ khàng bế mãi con lên
Con muốn lẩn vào khăn áo đám ma quê
Con muốn đắp lên cơn ho của con tàn hương thơm và ấm
Con nhìn thấy bà nội mặc áo tơ tằm ngồi giữa ngàn ngọn
nến
Bà rót một bình nước mưa trong để đợi con về
Cũng một biểu hiện như thế, những đụn khói đốt đồng tháng
Mười không còn là hiện thực được quan sát thấy, mà là hiện thực vọng về từ ký ức
tuổi thơ:
Ta đi qua tháng mười, ta đi qua tiếng gọi buổi chiều của
mẹ
Mây trời vun lên những đống rơm khô
Dấu chân ta xóa dấu chân chú bê vàng lạc mẹ và dấu
chân chú bê vàng xóa dấu chân ta
Khi bóng đêm vụt ra đứng chặn trước mặt ta, ta vội
quay lại tìm dấu chân mình
Òa khóc.
Ta tin có một mụ phù thủy đã biến ta thành một chú bê
Càng về sau, hiện-thực-giấc-mơ này càng phổ biến trong
thơ Nguyễn Quang Thiều. Thậm chí, có những bài thơ hiện lên như được tác giả
chép thẳng từ cơn mơ khi bừng tỉnh, mà ở khía cạnh nào đó, mượn cách nói của
chính Nguyễn Quang Thiều, đấy là “văn bản lần thứ nhất”. Hiện thực trong cơn mơ
đã không được tái cấu trúc, không được gọt giũa, trau chuốt, để hiện lên với tất
cả tính chất thảng thốt, độc sáng của nó. Song, cần phải nói thêm rằng, giấc mơ
là một phần của đời sống (thơ) Nguyễn Quang Thiều chứ không chỉ tồn tại đơn thuần
như một kỹ thuật của lối viết siêu thực được tác giả sử dụng. Sự tương đồng giữa
giấc-mơ-thơ của Nguyễn Quang Thiều với thủ pháp giấc mơ của chủ nghĩa siêu thực
phương Tây đã khiến nhiều người cho rằng thơ Nguyễn Quang Thiều thuộc vào dòng
siêu thực. Tôi thì cho rằng, biểu hiện tuy giống nhau, nhưng căn cốt của mỗi biểu
hiện ấy là khác nhau rất xa, sẽ là hợp lý hơn nếu đặt một góc nhìn tương đồng
chứ không phải ảnh hưởng khi đặt thơ Nguyễn Quang Thiều vào lộ trình hiện đại
hóa thơ Việt Nam, mà thơ ca phương Tây luôn được đem ra như một dẫn chiếu.
4. Hiện thực của suy tưởng và mơ tưởng phân chia thế giới
thơ Nguyễn Quang Thiều thành hai nửa tưởng chừng đối lập mà hài hòa: đêm đen
(bóng tối) và ngày rạng (ánh sáng), hiện hữu và khát vọng. Suy tưởng và mơ tưởng
trở thành sợi dây đan kết thế giới ấy. Bởi hiện hữu đen tối không thường xuyên
bị cột chặt với hàm nghĩa là cái xấu, cái ác; bất chấp việc tương lai sáng láng
lại thường xuyên gắn chặt với hàm nghĩa cái tốt, cái thiện, nhất là sự mới mẻ.
(Đêm) mơ luôn luôn là một không gian của bóng tối, dẫu không phải là ác mộng,
thì ánh ngày vẫn đem đến cho nó một sự hồi sinh: ánh ngày thiêu đốt cơn mơ để
nó trở lại rực rỡ và quyến rũ hơn khi màn đêm buông xuống. Suy nghĩ thấu đáo về
cuộc sống này, dẫu đôi lúc cuộc sống có “buồn hơn cái chết”, thì viễn tượng mà
suy tư thấu nhập cũng không loại trừ cuộc sống này: suy tư để thấy được cái đẹp
của cuộc sống, và của khát vọng sống. Nguyễn Quang Thiều luôn hiện diện như vậy
trong thơ: một chủ thể hướng thượng (và/trong/qua) mơ mộng. Và khi
còn mơ mộng, Nguyễn Quang Thiều còn mang trong mình dấu chỉ của mỹ học lãng mạn.
Đó là dấu nối Nguyễn Quang Thiều với thơ Việt Nam truyền thống. Nó cắt nghĩa
cho việc ngay sau khi để cho biên độ của sự sáng tạo văng ra rất xa trên quỹ đạo
của sự đổi mới thi ca với Sự mất ngủ của lửa, Nguyễn Quang Thiều lại
có thể dễ dàng thu hẹp biên độ ấy để trở về với cái gốc truyền thống
trong Những người đàn bà gánh nước sông và Nhịp điệu
châu thổ mới,chí ít là ở đề tài và chủ đề, ở việc bày tỏ trực diện tình cảm,
cảm xúc trong thơ, dù không đó không hẳn là thơ theo kiểu “ngôn tình” truyền thống
nữa.
Hai nửa của thế giới thơ Nguyễn Quang Thiều luôn hiện diện
và gắn bó với nhau một cách khăng khít, để nói như một so sánh đã trở nên quen
thuộc, hai mặt của một tờ giấy. Nhưng cũng có lúc, nửa này hay nửa kia của thế
giới ấy được tô đậm. Có thể lần ra bút pháp của Nguyễn Quang Thiều khi xây dựng
thế giới ấy một cách khá rõ rệt trong hai bài thơ dài: Nhịp điệu châu
thổ mới và Bài ca những con chim đêm. Ở đấy, con đường hướng
sáng làm thành cốt chuyện cho bài thơ thứ nhất; và, sự phong nhiêu của đêm đen
làm thành kết cấu cho bài thơ thứ hai.
Như được tác giả bộc bạch trong thay lời tựa,
người bà bại liệt đã là nguồn cội cho sự sinh thành tài năng và tư cách thi sĩ
của nhà thơ. Nhịp điệu châu thổ mới, với đề từ “Tưởng nhớ ngày mất
của bà nội”, chính là một cách nói thơ về nguồn gốc thi sĩ ấy. Với niềm tin
“con đường của cái chết đẹp không bao giờ đánh lừa hướng đi của bóng tối” và
“ra đi… đó là ánh sáng”, Cậu Bé của châu thổ kia đã đi tìm linh hồn đất ấy “bằng
những cách gieo âm tiết của mình”. Và sinh thành một miền châu thổ mới – châu
thổ của ngôn lời:
Đêm vĩ đại và linh ẩn đã chuẩn bị con đường cho Cậu Bé
Những quả đồi tự xưng tên tuổi thật của mình
Tất cả thức dậy và đứng lên, những quả đồi bóng tối
Thức dậy không quờ tay tìm đèn và không cả ho khan
Thức dậy và rút những chân hương ra khỏi ngực mình
THỨC DẬY ĐỂ CHÀO ĐÓN MỘT GIỌNG NÓI
Bài ca những
con chim đêm không
có một mạch tự sự như thế. Mở ra bằng không gian của sự tĩnh lặng, bỗng bật lên
một tiếng chim đêm, nó đánh thức thế giới tăm tối tưởng chừng như đang ngủ vùi ấy.
Tiếng chim ban đầu vọng về từ những quả đồi bên kia đánh thức thi sĩ. Đầu tiên
là ký ức. Không chỉ là ngôi nhà, ấu thơ, cơn mơ; mà qua đó, nhận ra chính bản
thân mình “cầm một cây nến trắng/ Đi trong thế giới của thì thầm và của mắt ngước
lên”. Thi sĩ nhận ra khát vọng của mình. Để rồi từ đó, khi tiếng chim “lên đến
đỉnh đầu”, rồi “phủ ngập trên mênh mông mặt hồ” “tiếng chim đơn độc và rền rĩ”,
thì cả thế giới của tưởng tưởng ùa ngập trang thơ: đôi tình nhân thành phố mới
đến ngủ quên, những linh hồn cũ mới thức dậy nghe trên những sườn đồi, thị trấn
bị lãng quên, người nông dân và con bò trên cánh đồng đói nghèo,... đều thức dậy
để lắng nghe tiếng chim đêm ấy - tiếng chim chào đón sự ra đời của một tiếng
nói, tất nhiên, vẫn là một-tiếng-nói-thơ:
Và từ căn phòng đèn quên tắt của đôi tình nhân đến từ
thành phố
Từ bờ dốc sỏi làm trượt chân con chuột ăn đêm
Đến ngôi nhà cuối cùng trong thị trấn bị lãng quên
Và xa nữa, người nông dân chờ chết và con bò chờ chọc
tiết
Cả chiếc dao mũi nhọn đang nguyền rủa sứ mệnh của mình
Và tận cùng đáy nước, chiếc lưỡi câu vứt đi mẩu mồi cuối
cùng run lên thổn thức
Đều nghe thấy trong ánh sáng ngôi sao rực rỡ
Trong tiếng bầy chim đêm vang vang những tiếng chuông
vàng
Giọng nói của đứa bé trong bụng người đàn bà câm cất
lên rền rĩ:
MẸ HÃY MANG CON LÊN ĐỈNH ĐỒI
Chính lúc này, nhanh hơn tiếng sấm, nhanh hơn cả tia
chớp, chúng ta nhìn thấy
Con đường và số phận dân tộc chúng ta từ một đỉnh đồi.
Luôn từ một
ranh giới nào đấy, đường chân trời của một cánh đồng, khúc quành của một dòng
sông, đường viền của một đỉnh đồi, cái thế giới bên này luôn là một dự phóng
cho cái thế giới bên kia còn khuất lấp. Nhưng luôn luôn là một thế giới đã được
báo hiệu tốt lành: Đẻ cho ban mai một dải trứng hồng.
Ban mai, như vậy, là từ khóa quan trọng nhất mở
vào thế giới thơ Nguyễn Quang Thiều.
5. Thơ Nguyễn
Quang Thiều ở nửa sau của cuộc hành trình tìm về/tới châu thổ (mới), tuy vẫn thống
nhất ở triết lý lãng mạn về cuộc đời, đã trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Bởi rất
giản dị, còn mơ mộng, còn khao khát đổi thay thì còn lãng mạn. Hay giản dị hơn
nữa, chính từ khóa “ban mai” đã chỉ ngay phía trên, chính là một dấu chỉ cho
tâm thức lãng mạn. Không chỉ là đề tài lớn thân thuộc (cố hương với những người
thân thích, những nông dân, những đàn bà và những đứa trẻ, với dòng sông, cánh
đồng, những con thú, những bờ cây cỏ), tập Cây ánh sáng chưng
cất thơ từ những điều nhỏ nhặt và gần gũi hơn, hiện diện bởi những địa điểm, thời
khắc, sự kiện, con người mà nhà thơ hạnh ngộ. Chất liệu mang tính cá nhân này
khiến cho thơ Nguyễn Quang Thiều trở nên khó hiểu, khó cảm hơn; lại cũng là một
cơ hội đẩy thơ Nguyễn Quang Thiều về phía tượng trưng, siêu thực. Vẫn là những
giấc mơ, nhưng trong những bài thơ về H, hay trong những bài thơ ghi lại một
khoảnh khắc nhà thơ viết lên “văn bản không đèn” chẳng hạn, người đọc khó chia
sẻ hơn rất nhiều so với những giấc mơ về người thân (đặc biệt là người bà nội)
và ký ức ấu thời. Vẫn là suy tưởng về cuộc sống đời thường, song bật lên là những
chiêm nghiệm về nghệ thuật, văn hóa, dân tộc. Chiếm một tỉ lệ khá lớn (so với
chính tập thơ và so với tỉ lệ ở những tập thơ khác) là những bài thơ về những mảnh
đất, những hiện tượng văn hóa và xã hội, những con người ở bên ngoài biên giới
quốc gia. Cũng độc đáo là những bài thơ suy tưởng về nghệ thuật (trong việc đưa
ra quan niệm về nhà thơ, về mối quan hệ giữa sự thật và nghệ thuật, vai trò và
khát vọng sáng tạo,...). Bài thơ dài Cây ánh sáng như muốn ôm
trọn vào nó những suy tưởng ấy. Bài thơ là sự phân thân của chủ thể nhà thơ, của
nhân vật trữ tình trong khát khao đối thoại về niềm tin, về bản chất con người
và nghệ thuật, về khả năng cứu rỗi khi người ta thấu thị được những điều ấy.
Nghệ thuật không chỉ đưa con người vượt thoát sự vây bọc của thế giới trần trụi
mà còn tìm thấy cho con người sự tự do trong chính sự vây bọc trần trụi ấy:
Trong một
ánh sáng ấy, một âm nhạc ấy, một ngôn ngữ ấy, trong một bầu trời ấy
Và Người đã
biến chàng trở thành một chiếc lá nhỏ không bao giờ tàn úa
trên cành của
tán lá ban mai kỳ vĩ trong vũ trụ ngập tràn.
Sau Những
người đàn bà gánh nước sông và Nhịp điệu châu thổ mới, như
sự trở về với cội nguồn cảm hứng dân tộc, nhất là ở sự quen thuộc và gần gũi của
đề tài và chủ đề, Nguyễn Quang Thiều đã tiếp tục trở lại với lộ trình cách tân
của mình, bắt đầu bằng Bài ca những con chim đêm, và sau đó, Cây
ánh sáng. Chắc sẽ có người đọc hụt hẫng khi không tìm thấy trong hai tập
thơ này, nhất là trong Cây ánh sáng, vẻ đẹp kỳ vĩ, dồi dào, lộng lẫy
của ngôn từ và cảm hứng thơ Nguyễn Quang Thiều như trong những tập thơ trước.
Có lẽ, sự cộng hưởng giữa nguồn cội nhà quê trong Nguyễn Quang Thiều và vô thức
quê mùa của người đọc trong lúc sự lựa chọn giữa tính dân tộc và tính hiện đại
trong thơ (như đã nói tới ở trước, kéo dài từ 1994 đến 1996, và còn gây ra những
bận tâm đến tận 1999) đã tăng thêm sức cuốn hút của những bài thơ viết về cố
hương. Sự lựa chọn của Nguyễn Quang Thiều, sau Sự mất ngủ của lửa,
thể hiện trong hai tập thơ liền sau ấy, như vậy, là tạo được hiệu ứng nghệ thuật,
mà vẫn có cơ hội đưa sự đổi mới thơ vào bối cảnh của sự thử thách: làm thế nào
để đổi mới thơ ở một chủ đề, đề tài đã trở nên quá quen thuộc. Tôi không nghĩ rằng
Nguyễn Quang Thiều đã khôn khéo trong trường hợp này, bởi không có không gian
cho sự khôn khéo trong thơ, mà là đứng trước ngã ba buộc phải lựa chọn, vô thức
đã dắt dẫn Nguyễn Quang Thiều hướng về ngả dân tộc chứ không phải ngả hiện đại.
Chỉ đến sau này, khi hội nhập và toàn cầu hóa trở thành một thực tế lịch sử,
câu chuyện biện biệt dân tộc và hiện đại, tính dân tộc và bản sắc dân tộc không
còn trở nên riết róng như trước, Nguyễn Quang Thiều ngay lập tức mở rộng không
gian của đổi mới thơ mình sang phía hiện đại, tiếp vào nguồn mạch đã được khơi
thông từ Sự mất ngủ của lửa. Đó là lúc Bài ca những con
chim đêm ra đời. Để sau đó, tiếp tục trở thành một dòng mạch chính
trong Cây ánh sáng.
Như vậy là,
cho đến Châu thổ, Nguyễn Quang Thiều đã có thể tổng kết một lộ
trình cách tân thơ của mình. Con đường thơ ấy có hai làn song song ngay từ khởi
thủy: dân tộc và hiện đại. Chỉ có điều, không phải đấy là hai làn ngược chiều.
Có một nỗ lực đổi mới chung làm thành nền tảng cho cả hai làn đường ấy: những
cách tân về vật liệu và hình thức. Ngôn ngữ văn xuôi và chất văn xuôi đổ bộ vào
thơ Nguyễn Quang Thiều đã làm nên cả những điều khả thủ và giới hạn của nó. Thơ
Nguyễn Quang Thiều rất ít khi hay ở chữ mắt, ở câu, thậm chí ở cả hồn cốt của tứ
thơ; mà hay ở sự phong nhiêu của ngôn ngữ, sự đa dạng của kết cấu, của sự bay bổng
hay sâu lắng của suy tư, mơ mộng. Bước vào thế giới thơ của Nguyễn Quang Thiều,
kiểu như Châu thổ, vì vậy, người đọc dễ bị ngợp, khó tìm thấy cây
mà cũng khó nhận thấy rừng. Tìm một vấn đề nào đó, hay tiếp cận thơ Nguyễn
Quang Thiều từ một hướng nào đó, thì không quá khó, nhưng để nắm bắt phong
cách, giọng điệu, bút pháp thì không hề đơn giản. Tôi không nghĩ rằng Nguyễn
Quang Thiều sẽ đi tìm cho mình một sự ổn định, dù ngay lúc này, ông đã tìm cách
tự ổn định hóa qua cách định nghĩa mình qua Châu thổ; song có thể,
đó là một cái ngoái lại cần thiết để người lữ hành bước tiếp, bởi phía trước,
sau khúc quành, sau chân trời là ban mai, là ánh sáng. Chỉ có một điều cuối
cùng cần phải nói thêm, tôi nghĩ vậy, là với một khát vọng ra đi, thì đích đến
chưa chắc đã phải là mục đích tối hậu, cái giá trị nằm ở chính con đường đi đến
cái đích đến ấy. Nghĩa là mãi mãi vẫn trên đường. Vì sau ban mai còn nhiều những
ban mai nữa...
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG
Nguồn: Thơ VN hiện đại
và NQT