Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền
Dấn thân quyết liệt bằng tư tưởng, hay những ý tưởng thời
cuộc, nhưng Thanh Tâm Tuyền trên hết ý thức mình là một nhà thơ. Phương cách của
nhà thơ là cảm hứng tột cùng và khao khát giác ngộ, vượt qua kiểu tri thức thực
tiễn thông thường, tâm nguyện của nhà thơ kiểu Thanh Tâm Tuyền là ngôn ngữ, khởi
thảo Sống. Phẩm chất tích hợp tuyệt vời trong ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền mở
ra một thế giới đa sắc, đa giọng điệu để những thế hệ sinh sau tiếp tục khám
phá, cho ra đời những dòng chảy chuyên biệt mang ảnh hưởng từ phổ rộng lớn
Thanh Tâm Tuyền.
***
Một số nghiên cứu trước xếp thơ Thanh Tâm Tuyền vào dòng
chảy siêu thực trên hai phương diện, một là sự phá cách cuồng phóng và hai là sự
hình thành, tạo tác hệ thống hình ảnh siêu thực. Tuy nhiên, Thanh Tâm Tuyền đã
vượt xa khỏi tư duy sáng tạo “siêu thực” để đi đến dạng thức thơ tự do, như
cách gọi của nhà thơ, không chỉ bao hàm tự do về mặt thể thức như vần điệu, sự
phá bỏ quy phạm câu thơ để đạt tới “thực hữu”-thơ, mà còn bao hàm cả ý nghĩa
quan trọng, thậm chí đóng vai trò quyết định, đó là tự do về mặt cảm hứng, phẩm
cách tự do chủ động của nhà thơ khi lựa chọn ý tưởng và biến ý tưởng ấy thành
chất thơ, thành tác phẩm thi ca.
Thơ Thanh Tâm Tuyền trước hết là những phát kiến về mặt ý
tưởng chứ không phải hình ảnh, như vẻ bề ngoài.
Nếu như phẩm cách đặc thù của thi ca hiện đại và đương đại
là sự xuất hiện con người cá nhân hoá cao độ, với những tình tiết nhân thân cụ
thể thực có, thì con-người-cá-nhân của Thanh Tâm Tuyền đứng trên những suy tưởng
triết học và nghệ thuật để soi chiếu thực tại. Mỗi bài thơ của Thanh Tâm Tuyền
đều rất ít gắn bó với tâm trạng cụ thể, mà khởi phát ngay từ mối day dứt, ám ảnh
của nhà thơ về tồn tại cũng như suy tưởng.
Việc gia tăng ý nghĩa tự sự cũng như tính chất mạch lạc,
suy lý của ý tưởng đối với nhà thơ đương đại, để khắc phục, đoạn tuyệt với ý
nghĩa duy cảm hời hợt của thơ trữ tình trung đại, thực ra đã được Thanh Tâm Tuyền
vượt qua một cách dễ dàng, nói cho chính xác, vấn đề này không đặt ra với thơ
ông. Vì thơ Thanh Tâm Tuyền trước hết khởi phát từ mối quan tâm tri thức, là sự
tổng hoà nhuần nhị của nhận biết.
Con người trong thơ Thanh Tâm Tuyền hoàn toàn ý thức về
tính chất tương đối của hiện trạng cũng như những khả thể Sống:
Tôi buồn khóc như buồn nôn...
Tôi buồn chết như buồn ngủ...
Tôi thèm sống như thèm chết...
(“Phục sinh” - Tôi không còn cô độc, 1956)
Ðó không phải trạng thái lẫn lộn biến hoá của ý thức cuồng
phóng, mà là sự điềm tĩnh, nhận rõ những thái cực hay hiện trạng, động cơ hay ẩn
ức khác biệt của đời sống con người, thực ra chỉ là những bộc lộ khác nhau của
cùng một bản thể, sự bộc lộ nhất thời trong một hành trình vô tận, với một góc
độ nào đó ít nhiều mang tính siêu hình.
Tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
cho đứa nhỏ linh hồn
sợ chó dữ
con chó đói không màu
Tôi buồn chết như buồn ngủ
dù tôi đang đứng trên bờ sông
nước đen sâu thao thức
tôi hét tên tôi cho nguôi giận
thanh tâm tuyền
...
Tôi thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật
Khái niệm “sống” và “chết” trong ý nghĩa gần nhất, mang
tính tượng trưng cho sự gột rửa, phục sinh về con người, cũng có nghĩa là tự dời
xa một con người nào đó có trước. Nhưng nghĩa bóng, nghĩa xa của nó lại là sự
“sống” và cái “chết” sinh vật thực hữu ở đời. Chứng nghiệm cái chết bao giờ cũng
là thách thức lớn của lý trí và bản năng, ngay cả khi nó được so sánh tương
đương với cái sống và mang bản chất sống.
Ðối với Thanh Tâm Tuyền, “chết” còn là tiên đề có trước
chứ không phải sống, nhà thơ cảm nhận về chết trước khi cảm nhận sống. Không phải
như một ý niệm triết học hay nghệ thuật thu hút mối băn khoăn, đòi hỏi làm sáng
tỏ, không phải một phương cách hoà hoãn tạm thời thực ra là để trấn an nỗi “sợ
chết”, quan niệm về cái chết của Thanh Tâm Tuyền đến từ cảm giác chứng nghiệm
cái chết khác của những hiện hữu khác, mà nhà thơ nhận ra đó cũng là bản ngã của
chính mình. Quan niệm này gần gũi với triết lý tỉnh thức từng giây phút tinh
tuý trong Thiền học Phật giáo.
Mang bản chất sống, có trước sự sống, hiển lộ cùng với
nhiều “cái tôi” khác nhau, cái chết trong thơ Thanh Tâm Tuyền là một minh chứng
tự nhiên cho việc cùng tồn tại nhiều bản ngã trong một con người, mà không phải
bao giờ con người cũng chứng nghiệm trọn vẹn, cũng như tính chất tương đối của
con người tự ý thức, nhận biết.
Cái chết còn là một giá trị cao cả đặc thù cho thẩm mỹ bi
tráng, tâm trạng bi mẫn của thơ Thanh Tâm Tuyền.
Thừa nhận tính tương đối của bản ngã, thơ Thanh Tâm Tuyền
xuất hiện những mô tả vắng chủ thể người và thay vào là những chủ thể lạ lùng
đa bản chất:
[đoạn 2]
Mùa hè lên tiếng cười trong bàn
tay nước suối
mùa tóc mun
đẹp những khu rừng không bóng cây
...
(“Mai”, Liên, Đêm Mặt trời tìm thấy, 1964)
Chủ thể ở câu thơ là thiên nhiên, “mùa hè”, mà con người
chỉ xuất hiện bằng những phần đoạn rời rạc, riêng lẻ, “bàn tay”, “tóc”. Một cảm
nhận mang tính-người nhất quán ở đây được chia nhỏ cả cho những sự vật khác,
“nước suối”, “mun”, và sự dịch chuyển quan trọng của cảm giác làm nên hình ảnh
phi thực dị kỳ: “đẹp - khu rừng không bóng cây”. Tuy nhiên, “khu rừng không
bóng cây” đã trở thành một ý tưởng hơn là hình ảnh.
Em bao giờ là thiên nhiên
anh cúi đầu xuống ngực
dòng mưa sắc lá
đau môi
Cỏ của hoa và hoa của cỏ
những ngón tay những gót chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín
cho thơm đường hôm nay đến sớm
mai
...
...
Gai trắng con ngươi mở mù
loà
hơi đất nằm trong tóc
thèm muốn mỗi hàm răng
từng móng vuốt
đầy đồng xanh hoa nhiều
màu một người
sống sót
(“Cỏ” - Liên, Đêm Mặt trời tìm thấy, 1964)
Thật khó để gán một ý nghĩa minh định cho đoạn thơ, bởi
nó không kể chuyện, không mô tả, không định hình liên tưởng trong những sự vật
cụ thể và cũng không bộc lộ, dù là cảm giác hay ý tưởng nào xuyên suốt, nhất
quán. Nhưng tất thảy lại diễn tả một (hay nhiều) sự kết nối và phóng hoạ, lan
toả. Của thời gian, từ phiếm định, mênh mông, “bao giờ”, cho tới sự huân chuyển
“hôm nay” đến “sớm mai”. Của cảm nhận gãy vụn vào những mảnh thiên nhiên: “dòng
mưa”, “sắc lá”, “đau môi”, “gai trắng”, “mù loà”, “hơi đất”, “trong
tóc”... Của con người trở thành thú vật: “thèm muốn”, “hàm răng”, “móng vuốt”.
Của vị trí từ chủ động tiến thoái hoặc phát ngôn, bỗng trở nên bị động tồn tại,
một cách vừa phi lý lại vừa tuyệt vời tương xứng: “đầy đồng xanh hoa nhiều màu
một người / sống sót”.
Đó không phải cảm giác lộn xộn quái lạ của giấc mơ siêu
thực, mà là hành trình qua nhiều trạng thức của tồn tại đa chủ thể, hay chủ thể
tích hợp nhiều phẩm cách, tích hợp nhiều chiều thời gian, không gian.
Trong khi một số phân tích và nghiên cứu đặt niềm tin chắc
chắn vào phương thức hình thành hình ảnh siêu thực như là cách thức đặt các
hình dung, cảm giác đối lập, hoàn toàn không tương đồng bên cạnh nhau, thì thực
chất của tư duy siêu thực vẫn là tập hợp những hình ảnh có bề ngoài rời rạc
không liên quan, nhưng được liên kết từ nội tại bởi ám ảnh và đột biến của cơ
chế “giấc mơ”.
***
Từ quan niệm về bản ngã đa phẩm cách, đa hiện hữu, Thanh
Tâm Tuyền nhanh chóng tạo lập những ý tưởng và hình dung mới quyết liệt, vũ bão
về tồn tại. Không còn một đời sống dựa trên những giá trị thuận lý, những cảm
nhận “xuôi chiều” vốn có (ví dụ từ nội tâm phóng chiếu ra bên ngoài, từ bản
năng trở thành tất nhiên), mà là tất cả của đảo lộn, nghịch lý, sự xa dời, dịch
chuyển khỏi những khái niệm, trật tự bình thường vốn có:
Ngực câm không tiếng nói
Chất cười không thuộc môi
Giác quan đói khát
Đường hẻm vây cửa sổ
Người ngồi quên thời gian
Tình cảm đòi mở ngỏ
Bàn tay trơ tự do
Hoa chối từ tóc biếc
Hơi thở đắn đo
Sự sống còn một người
Sự sống còn nhiều người
Những người vô tội
Nhân danh
Tình yêu tự do người
tôi được quyền kêu gọi
Những người đã chết xin có mặt
Những người còn sống xin giơ tay
(“Nhân danh” - Liên, Đêm Mặt trời tìm thấy,
1964)
Sự xuất hiện dày đặc của chủ thể bị động, vị thế bị động,
thậm chí bất lực của con người trước những trạng thái, bản năng vốn dĩ thuộc về
mình: “chất cười”, “tình cảm”, “tự do”, “hơi thở”, “sự sống”, vị thế bị động
tương đối của “tôi” trước “tình yêu tự do người”, biểu lộ tâm thế phụ thuộc tột
cùng của con người vào những bản ngã khác, hoặc phẩm cách khác. Sự tách rời những
phẩm-chất-người ra khỏi con người, tách rời con người khỏi chính-con-người là
điều Thanh Tâm Tuyền nhiều lần lặp lại, tuy nhiên nó không giống khái niệm phân
thân hay “độc thoại nội tâm” của lối viết cổ điển, mà là một định hình phá vỡ định
hình cũ về con người cũng như nhân thế.
Chính điều này đã dắt dẫn Thanh Tâm Tuyền tới cảm quan được
khách thể hoá mới mẻ, nhưng cũng rất gần gũi với tư duy huyền nhiệm Đông
phương:
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Anh một trái tim em một trái tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác
Hãy cho anh giận bằng ngực em
Như chúng bắn lửa thép vào
Môi son họng súng
Mỗi ngã tư mặt anh là hàng
rào
...
... Chúng nó say giết
người như gạch ngói
Như lòng chúng ta thèm khát
tương lai
Hãy cho anh run bằng má em
Khi chúng đóng mọi đường biên giới
Lùa những ngón tay vào nhau
Thân thể anh chờ đợi
...
... Đêm không bao giờ không
bao giờ đêm
Chúng tấn công hoài những buổi
sáng
Hãy cho anh chết bằng da em
Trong dây xích chiến xa tội nghiệp
...
(“Hãy cho anh khóc bằng mắt em Những cuộc tình duyên
Budapest” - Liên, Đêm Mặt trời tìm thấy, 1964)
Nhà thơ đặt tương đương những giá trị cũng như ý niệm về
thời gian: “chúng say giết người” như “lòng chúng ta thèm khát tương lai”,
“không bao giờ đêm” vì “chúng tấn công hoài... buổi sáng”, không chỉ như một
cách phơi bày sự thật nghiệt ngã, tàn khốc đang diễn ra, mà còn nói lên tính ngẫu
nhiên chết người, vượt khỏi tầm kiểm soát chủ quan, trong các xung đột nhân thế,
hay quá trình kháng cự lại cái ác.
Khi tội ác được xem gần như không còn là một năng lượng
kiểm soát được bằng lý trí hay chủ động của con người, lúc đó tồn tại, sự sống
chết cũng không phải được duy trì bằng ý thức, mà là sự lan toả của linh cảm,
những rúng động, mối tương cập của chủ thể ngoài-chủ-thể. Câu thơ Thanh Tâm Tuyền
gợi nhớ những nhân vật trong truyện Genji Nhật bản, với những hiện thân bên
ngoài con người có thực, đi tìm cách trả thù riêng. Tuy nhiên con người với bản-ngã-ngoài-chủ-thể
trong thơ Thanh Tâm Tuyền xác nhận đau thương, bi kịch hay nói một cách tổng thể
là hiện tồn của tha nhân, như chân tính của mình, điều này gần gũi với một quan
niệm căn bản của đạo Phật.
Tài năng của nhà thơ là dùng quan niệm ấy xoay chuyển
toàn bộ thế giới thi ca và tâm tưởng vốn có, làm rỗng các giá trị tưởng chừng
không suy suyển, hối thúc nghi ngờ, căn vấn, xoá bỏ, đốt trụi, và nung nấu khao
khát khơi những lằn ranh mới của chuyển dời, gột rửa, tái sinh.
[đoạn 6]
...
Phiêu lưu mãi là một nhà
tù
Dãy tường câm chuyển động
Trên một triền
vực sâu
Vũng nhỏ giữa bàn tay khô
héo
Mang dấu tích tình yêu
Là những niềm bối rối ...
[đoạn 7]
...
Anh bỏ trống hết cuộc
đời
Những buổi chiều ban mai
những nhớ nhung bầu trời
Những vuốt ve trên bàn tay...
...
Không gian trong tay ôm
Thời gian trong máu chảy
Anh bỏ trống hết mọi người
Những người đẹp như hy vọng
Những người thân như quê hương...
...
Em đã chết đã chết...
...
Ôi đêm nay đêm nay đêm nay
Lăn lộn cùng gai góc
Trong hốc đá tối tăm
Đớn đau ghì lấy em
Anh chỉ là giấc mộng ...
(“Sầu khúc” - Liên, Đêm Mặt trời tìm thấy,
1964)
Những ý tưởng bao giờ cũng đi trước, mở lối và được nâng
cao bằng hình ảnh, những hình ảnh đa chiều, đa cảm giác. Cụ thể hoá ý tưởng
“phiêu lưu”, nhà thơ kết hợp “dãy tường câm” của ngục tù với ý nghĩa di dời vốn
có của khái niệm, tạo ra hình ảnh “siêu thực” lạ lùng, nới rộng tưởng tượng,
nhưng thực chất của hình ảnh này lại là ý tưởng mở, là kiếm tìm một trường ngữ
nghĩa (phạm vi hiểu và kiến giải) khác. Khi sự giam cầm cũng không còn là cố định
mà chuyển dời tương tự xê dịch của con người, thì ắt con người khốn đốn ấy
còn bị đẩy tới đâu?
Cũng là sự chuyển dời của khái niệm, từ ý nghĩa cụ thể,
“bỏ trống”, nhà thơ dành cho nó ý nghĩa trừu tượng trong kết hợp lạ thường, “bỏ
trống - cuộc đời”, “bỏ trống - mọi người”, tạo ra sự xuyên thấm giữa cái cụ thể
và trừu tượng, không còn ranh giới. Đọc cách tư duy táo bạo của Thanh Tâm Tuyền
để thấy thực ra những gì vẫn được quan niệm là “trừu tượng” vô hình hoá ra vẫn
có thể chạm khắc, tạo tác, định hình hay phế bỏ... hoàn toàn theo cảm quan của
con người. Trong khi nhà thơ Nguyên Sa thiên về hình ảnh để tạo ra trường cảm
giác mở, thì Thanh Tâm Tuyền thiên về ý tưởng, dùng sự chuyển dời của ý tưởng để
làm thay đổi thế giới quan thơ.
Tương nhự như vậy, nhà thơ phế bỏ chính tồn tại của “cái
tôi” qua hàng loạt hành động cụ thể. Sự va chạm vật thể, “lăn lộn”, “đớn đau”,
“ghì lấy”... chỉ để khẳng định chắc chắn “anh chỉ là giấc mộng”. Ngay cả cái chết
của người yêu, cũng nên hiểu là sự chết một cách tương đối, một nỗi đau đớn hay
tuyệt vọng nào đó của “anh”, và không phải vì điều đó mà “anh” cũng sẽ “chết”
như logic những chuyện tình cảm bi lụy. Con người trong thơ Thanh Tâm Tuyền cảm
nhận bản thân như cái không có thực, ngay trong khi đang đau đớn, hờn giận, buồn
tủi, tuyệt vọng, đang cảm nhận về một hiện hữu giả định, “đêm nay” nào đó. Đối
với Thanh Tâm Tuyền, không có hiện tại hiện hữu mà chỉ có những hình dung, giả
định về hiện tại, trong đó chủ thể của mọi tưởng tượng, suy tưởng, cũng chỉ là
một bóng hình, một giấc mộng mà thôi. Như vậy ngay cả khi biết tư duy và cảm nhận,
con người cũng xuôi tay, không tài nào minh định rõ ràng bản thân và thế giới bằng
những giá trị thực có. Nhận biết trong trường hợp này là vô nghĩa, hay chính
con người cực đoan tới mức cố ý coi nó là vô nghĩa lý.
Phá hủy để sáng tạo hay có khi phá hủy cũng là sáng tạo.
Đảo lộn đến tận gốc rễ của tồn tại cũng là cách thức tồn tại mãnh liệt.
Thế giới của Thanh Tâm Tuyền mở toang những ám ảnh sâu
ngút, những vẻ đẹp kỳ lạ, và đặc biệt nhuốm đượm tất thảy một nỗi bi thương
quánh đặc, không thể làm cách nào dời xa hay tẩy rửa.
Anh cần đốt điếu thuốc ấy
Vì có nụ cười sau làn khói
Với mầu mắt em hoàng hôn màu áo em
Trong buổi chiều miền đồi núi
Điếu thuốc như một lời trao
gửi chưa thành nghĩa
Như tên em hay tên loài hoa
nào biết được
Anh sợ những ngôn ngữ bơ vơ
Khóm rừng quên dưới thung lũng
Bầy cỏ hoang ven đường
Mọc lên trong hồn anh dại dột...
Nhưng điếu thuốc bỗng trở niềm
hắt hủi ...
Em có biết sau lúc em từ biệt
Điếu thuốc cháy trên môi như
người bạn chết ...
...
Rồi anh bước trên những chiều dốc lạnh
Con đường duỗi dài cánh tay người chết
đuối
Cầu cứu thành phố bỏ trốn đâu...
(“Bài hát buồn”, tặng Ngọc Dũng - Liên, Đêm Mặt
trời tìm thấy, 1964)
[đoạn 2]
...
Anh chìa hai bàn tay khô
héo
Nỗi tự do buồn phiền
Hai bàn tay những con đường cỏ cháy ...
[đoạn 4]
...
Khi em đi qua những đường phố giẫm nát những giấc mộng
theo đòi
Hi vọng dội lên từng hồi trống rỗng
Anh ngắm hai bàn tay anh nhớ tàn
lá về chiều
Khóc thờ ơ ngoài không trung ...
(“Sầu khúc” - Liên, Đêm Mặt trời tìm thấy,
1964)
[đoạn 6]
...
Căn phòng nhốt những ý
nghĩ mệt nhọc trời gần sáng
[đoạn 10]
Có ai gọi tên tôi giữa phố , phố
hoảng sợ , cái tên lăn như một xác chết nhập hồn. Tôi dừng
lại níu giữ lấy đêm tối lại , để cho tôi yên, đồ khốn kiếp, tôi
không phải cái tên, tôi là một người không bao giờ biết giết người. Anh
không phải một cái tên sao người ta cứ gọi như hú kêu loài ma quỷ?
(“Đêm”, tặng Duy Thanh - Liên, Đêm Mặt trời tìm
thấy, 1964)
Nửa đêm, mọi người ngủ ôm lấy mình
Một người khác trong giấc mơ ...
(“Thức giấc” - Liên, Đêm Mặt trời tìm thấy,
1964)
Tôi vẫn sống thiết tha dù không còn hình ảnh
Dù không còn âm thanh
Làm sao tôi biết được thế nào là tự do...
...
Hôm nào tôi thường lang thang dưới những rặng
cây, không phải mùa thu hay mùa đông cũng chẳng phải mùa hạ hay mùa
xuân
Thời tiết đã trốn mất chỉ còn vầng trán và trời,
bàn tay và mây, mắt với hư vô . Tôi tin rằng tôi sẽ nổi loạn , tôi
sẽ làm cách mạng cùng với những người anh em của một ngày chưa
ước hẹn ...
...
Khi tôi đã nằm giữa nơi sa mạc miệng đầy cát
khô thì tôi không còn hình ảnh không còn âm thanh .
Tôi vẫn hỏi thế nào là tự do ...
(“Hơi thở” - Liên, Đêm Mặt trời tìm thấy,
1964)
...
Tôi đẹp như hình tôi
Như cuộc đời
Như mọi người...
(“Bài ngợi ca tình yêu” - Liên, Đêm Mặt trời tìm
thấy, 1964)
Có thể đối với một số bạn đọc, thơ Thanh Tâm Tuyền đòi hỏi
những “giác quan” trừu tượng, nó không gần gũi với những xúc cảm thực thể hay lối
hình dung sơ giản về tâm lý. Nhưng đó là nơi long lanh vẻ đẹp của tâm thức biết
dừng trước ngưỡng cửa bất tri, cũng là “toàn giác”. Vừa tôn sùng tới cùng kiệt
những giá trị cao cả của hiện tại như tự do, tình yêu, vừa ngạo mạn cuốn băng
những ước định thời gian và không gian, hiện hữu và trôi chảy, biến nó
thành vô nghĩa. Thơ Thanh Tâm Tuyền đẹp cao siêu, kỳ vĩ, nhưng cũng rất đỗi
khiêm nhường. Khi khái hoạt cao rộng không cần biết đến hiện tại, quá khứ, vị
lai, “sắc - không”, khi khiêm nhường tới “vô ngã”. Cái vô ngã mà nhà thơ cần lấy
hình tượng từ giác quan ngoại cảnh làm gương soi, khả dĩ làm hiện hình chủ thể.
Cái bi thương trong thơ Thanh Tâm Tuyền là tất yếu, nó phần
nào mang năng lượng huỷ hoại, đen tối, nhưng lại không xa lạ, thù nghịch hay
làm con người khiếp sợ.
Nỗi đau thương vừa tất nhiên, vừa tự nhiên. Nỗi đau toàn
bích.
Bi thương như một tiêu chí thẩm mỹ, một giá trị mẫu mực,
một ẩn ức có trước mọi sinh tồn và niềm vui. Đầy ắp trong thơ Thanh Tâm Tuyền,
từ bất cứ ý tưởng, hình ảnh nào, là những hình dung về sự huỷ hoại, cảm giác
đau đớn. Tất thảy mọi chuyển động dù theo chiều hướng nào của thời gian, chiếm
những chiều kích phi lý đến đâu của không gian, cũng đều làm lộ ra những vết
thương, chảy máu, xương cốt của đổ vỡ và đau thương. Nó là quá trình chứng nghiệm
không thể tách rời của sống, là phía khác của sự sống, bao trùm cuộc sống. Với
nhà thơ, tồn tại có nghĩa là đau khổ, đau đớn, bị cắt xẻ và huỷ hoại. Bi
thương, tan vỡ, rữa nát, gớm guốc... không phải đối trọng của cái hài hoà, cân
xứng, hàn gắn, nuôi dưỡng... như hai phạm vi tư biện trong cảm nhận thế giới.
Thơ Thanh Tâm Tuyền thảng hoặc cũng có sự hiền hoà, mủi lòng nhưng tuyệt đối
không dễ chịu. Với cái bi thương gớm guốc, ông kiên quyết đặt ra một thách đố về
thẩm mỹ. Liệu cái đau khổ, rách nát, gớm guốc ấy có phải là cái đẹp hay không?
Và dường như Thanh Tâm Tuyền đã trả lời, cũng lại vẫn như một thách đố. Đó là
cái đẹp muôn phần hơn “cái đẹp” thông thường, bắt mắt, có tác dụng xoa dịu hay
trấn an, bởi vì nó day dứt, bắt người ta phải suy nghĩ, phải hoảng hốt, xoay
chuyển, không còn là con người tất định và khép kín, phải đứng trước muôn vàn
khả thể khác của cuộc đời.
Đọc thơ Thanh Tâm Tuyền có thể liên tưởng tới bi cảm
(Aware)[*] trong văn chương Nhật Bản. Tuy nhiên, nếu
bi cảm của người Nhật chỉ giống như một giọng điệu sâu kín hay một giá trị thẩm
mỹ tối cao, thì cảm quan bi thương của Thanh Tâm Tuyền tìm đến mọi biểu hiện, mọi
phương cách để phát lộ chính nó. Coi cuộc đời như sự diễn ra và lan toả của cái
bi thương, nhà thơ đến với một quan niệm về thế giới phi lý, hay thế giới không
chịu định hình trong cái trật tự thông thường.
Sự lạ lùng, dị thường, không tuân theo bất cứ luận định
nào trong thơ Thanh Tâm Tuyền, mà một số người đọc cho rằng đó là cách thức tạo
ra hình ảnh siêu thực, chỉ là cái bề ngoài phi lý so với sự vật hữu thực. Ẩn
sâu trong nó là dòng chảy giác ngộ, theo con đường riêng của nhà thơ đến với sự
vận động không cùng của đời sống tự nhiên và con người.
Tiếng động cơ xô anh vào bẫy, trên cát lầy lún mãi, tuổi
thiếu niên chạy về nhảy múa trên tóc anh và gọi. Mày đã trồng những mặc cảm sum
suê trên thân đơn, những rễ chùm ác nghiệt luồn tới não tuỷ mày, biết không một
loài cây ăn thịt. Mày đã đội vòng gai nhọn trên đầu, máu tuôn, gai tẩm độc làm
rữa dần vô thức. Thôi mày hãy ôm khối lửa đỏ, định mệnh mày cừu địch, những hân
hoan ngu tối cùng tự do khốn nạn...
(“Chiều trên phi trường” - Liên, Đêm Mặt trời tìm
thấy, 1964)
Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những dòng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của máu của tuỷ của hồn bắt đầu ngày tháng
Giữa rừng không lời rừng mãi trống không
Ném mình ném đám đông vào trần truồng tủi cực hờn xác
thịt
Tan vỡ hôm qua hôm nay kể gì ngày mai
Tội rằng không quên chẳng thể được quên
Vì Blues không xanh vì điệu blues đen
Trên màu da nức nở
Trong hộp đêm
Bắt đầu chảy máu thầm kín khóc cổ họng mình
Ngón tay cấu lấy ống kèn như một bùa thiêng...
(“Đen” - Liên, Đêm Mặt trời tìm thấy, 1964)
*
Thơ tình của Thanh Tâm Tuyền không chiếm dung lượng lớn
so với những bài thơ chất chứa mối sầu thương tồn tại, bộc lộ chủ thể hoà mình
và tin cậy vào cái mênh mông, vô định. “Liên, những bài thơ tình thời chia
cách” (Tôi
không còn cô độc, 1956) và loạt bài mang cảm hứng luyến ái mà nhà thơ từ
đó khởi sinh hình tượng lấy làm tên gọi của tập thơ thứ hai (Liên,
Đêm Mặt trời tìm thấy, 1964): “Nói về dĩ vãng”, “Chiều trên phi trường”,
đoạn 6 của “Đêm”, “Dạ khúc”, “Mặt trời tìm thấy”.
Trong thơ, khi người viết thỉnh viện đến những hình tượng,
biểu tượng của luyến ái, ví như “anh - em”, môi hôn, thân thể... thì chưa nhất
thiết đó là thơ tình. Nhà thơ có thể mượn những hợp thành của ngôn ngữ yêu
đương để biểu đạt những cảm thức khác. Ngôn ngữ thơ, mà một phần của nó dành
cho nội dung tình yêu, với bản chất mở, đòi hỏi người viết không chỉ dựa trên
những quy tắc nghệ thuật sẵn có, mà phải phá vỡ nó, truyền sinh khí mãnh liệt
cho nó bằng những cảm xúc cũng như sáng tạo gắn liền với phẩm chất cá nhân. Sự
lặp lại một tổ chức nghệ thuật dù nhỏ nhất từ người đi trước, cũng đầy khả năng
trở thành “đạo văn”. Trong trường hợp này, cá tính, cơ chế cảm xúc độc đáo, những
đặc thù nhân thân quy định hai phẩm chất nói trên và năng lượng sáng tạo ngôn từ
sẽ xác quyết dấu ấn, thành tựu nghệ thuật của nhà thơ.
Tiêu chí để phân loại “thơ tình”, vì thế, là những bài
thơ, tứ thơ, gắn liền với cảm xúc luyến ái thực có cũng như nhân thân của nhà
thơ. Những bài viết về tình yêu nhưng lại hướng tới những giá trị hay niềm tin
khác, như “Bài thơ của tháng Giêng”, “Mai”, “Nguyên”, “Cỏ”, “Mưa ngủ”... không
nên kể là thơ tình.
Con người trong tình yêu của Thanh Tâm Tuyền chưa bao giờ
tách bạch khỏi con người kiếm tìm những xác tín của tồn tại. Nói cách khác,
tình yêu là một trong những chứng nghiệm tồn tại, hiển lộ bản ngã, là sắc hương
say đắm, ẩn ức sâu kín, là động lực sinh tồn sánh ngang với nỗi đau thương.
Khuynh hướng ý tưởng, tự sự hoá, cảm quan triết lý vẫn rõ
nét, nhưng bên cạnh đó là sự buông thả, bộc phát, thăng hoa về mặt cảm xúc.
[đoạn 1]
Sự em có mặt cần thiết như
những sớm mai
(nếu đời người không có những sớm mai)
(“Liên, những bài thơ tình thời chia cách - Tôi
không còn cô độc, 1965)
Vẫn hình dung tình yêu bằng biểu hiện lý tính, “có mặt”,
“cần thiết”, nhưng các hình ảnh tươi sáng, mới mẻ, hiền hoà, thấm đượm cảm giác
êm dịu và tinh khiết xuất hiện nhiều hơn, ví dụ “những sớm mai”. Nói về tình
yêu, Thanh Tâm Tuyền tự cho phép mình mủi lòng, mềm yếu, thậm chí ngọt ngào. Sự
đan xen của hình dung lý tính với cảm giác thuần khiết khiến cho câu thơ mang một
vẻ lạ lẫm, vừa giãn cách, làm gián đoạn mạch cảm xúc thông thường, vừa dồn sự
chú tâm của người đọc vào cảm nhận, khiến nó trở nên chói sáng, sắc nét rõ rệt
hơn.
Cho tới than vãn, đắm đuối, hoảng hốt:
Hỡi Liên những Liên và Liên
(“Nói về dĩ vãng” - Liên, Đêm Mặt trời tìm thấy,
1964)
Là Liên là Liên là Liên còn
trong Hà nội
(“Đêm” - Liên, Đêm Mặt trời tìm thấy, 1964)
Sự phá vỡ cấu trúc cú pháp “chuẩn” không chỉ bộc lộ trạng
thái rối loạn, đảo lộn, trùng điệp của tâm thức, cảm xúc, mà còn là những dịch
chuyển sống động của ngôn ngữ thơ. Nó vừa bộc phát tâm trạng, vừa là kết quả những
ám ảnh từ ngữ.
I.
Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai
(nếu đời người không có những sớm mai)
anh trở dậy
đọc thơ Nguyễn Du
những câu lục bát buồn rưng rưng cuối
đường của một ngày
chợt anh muốn viết tặng em
không thể được
em làm con tin ở một thế giới
mà lòng sầu héo là trọng tội
anh cố gắng viết những lời
thơ thật tự nhiên
như câu chuyện buổi còn gặp gỡ
như khoảng trời đơn sơ sau cửa sổ
anh gọi thầm một mình
trong giấc mơ phủ làn tóc biếc
anh biết anh gọi thầm một
mình
LIÊN
II.
Anh nhớ em cùng một lúc với thành phố
với những con đường anh đi qua một lần
để đến nhà em anh băng ngang một vườn
hoa vắng
(lần trở về anh ngồi xuống một ghế dài
nếu là buổi chiều quạnh hiu mây lá mùa thu )
một phố bình dân có chợ và
những quán ăn
giản dị như trang nhật ký của anh
ngày bắt đầu yêu em
...
VI.
...
có thể em chết trước khi anh kịp về
mùa lạnh gian phòng cũ
không ai khép cửa sổ ...
có thể rồi anh sẽ yêu người đàn bà thứ hai
anh không chối
nhưng mãi mãi em còn là đất dĩ vãng
mà rễ tình cảm đòi bén gần...
em ơi tình yêu thường đến vào buổi chiều
khoe cánh tay quyến rũ
nhưng không là buổi chiều
đúng hơn là buổi sáng rừng tâm hồn ta
vậy sao em lại ngủ
ngủ trong lòng mộ trong nghĩa địa thân thể anh
với áo cỏ may châm da thịt
anh đã đến từ biệt lùa mái tóc vào những ngón
tay ...
thành phố đứng cao làm hiệu
rằng anh còn trở về
rằng anh còn người yêu
nàng công chúa ngủ trong rừng không giận hờn
LIÊN
(“Liên, những bài thơ tình thời chia cách - Tôi
không còn cô độc, 1965)
Hoàn cảnh chia cắt, với nỗi đau thương u uất khó lòng giải
toả có thể là điều kiện thực có, nhen nhóm nuôi dưỡng trong nhà thơ những
kỳ vọng khác thường về tình yêu. Như một điều quen thuộc, người ta thông qua
tình yêu tìm đến sự cao cả, lớn lao, thậm chí là vĩnh viễn, vượt khỏi thân phận
bé nhỏ. Thanh Tâm Tuyền nhờ tình yêu mà thừa nhận những phi lý, thừa nhận cái
thường nhật, đơn sơ, nhỏ bé của cuộc đời. Tương đương ý nghĩa của những gì lớn
lao.
Hồi tưởng về tình yêu, Thanh Tâm Tuyền thường thỉnh viện
sự khởi đầu, buổi mai... như một niềm ao ước hồi sinh, nguồn năng lượng tràn đầy,
những gì tinh khiết bản nguyên chưa hề bị phôi pha. Nhà thơ không hề giấu giếm
lòng thành kính, không ngại ngần khổ luỵ, dời lui tính tự tôn, mở ngỏ tất thảy
những gì yếu đuối của lòng mình, bởi tình yêu và người yêu cũng là một lý tưởng.
Nhưng sự cắt chia, bị tước đoạt khỏi “lý tưởng” đã khiến thơ tình Thanh Tâm Tuyền
mang màu sắc lặng lẽ, khiêm nhường, đầy hồ nghi, cảm giác không gian và thời
gian xáo trộn, hướng tới cái nhỏ bé.
Khuynh hướng tự sự hoá trong thi ca đương đại thế giới
thường đi liền với cách thức chi tiết hoá, miêu tả, thuật kể đến từng chi tiết
cụ thể. Thơ tình Thanh Tâm Tuyền cũng tiếp nhận ảnh hưởng này, nhưng thẩm mỹ
khiêm nhường, đơn sơ lại đến từ cảm thức về cắt chia và mất mát.
Thơ tình Thanh Tâm Tuyền cũng là lãnh vực của nỗi đau,
không chỉ vì những gì chưa thoả nguyện của tình yêu, mà thông qua đó, hiện lên
nỗi đau thương của phẩm cách và phận người.
...
Hỡi Liên những Liên và Liên
Dù một chút, đau thương, từ chối, tổ quốc
ta chạy dài trên địa ngục, xoè mở hai bàn tay anh khóc đó - những ngón tay gầy
trơ xương chọn. Con đường đi buổi chiều hấp hối , ôi buổi
chiều sương mù .
Hỡi Liên những Liên và Liên
Anh muốn nghe một bài hát buồn - lời
anh không thành điệu - muốn nghe một bản hát buồn . Thí
dụ . Trưa nắng giữa ngã năm ngã sáu có chợ có ga đường tàu mải miết. Bóng
tối lặng thinh em hát lên làm sao mà chịu đựng ,
hoa lá chia sầu. Một góc bàn anh hôn mầu gỗ trống .
Hỡi Liên những Liên và Liên
Chẳng là anh ngông cuồng kiếm tìm tổ quốc vậy em
biết không. Mà tổ quốc ngàn đời nín thở vì trời thì xanh mà khổ
đau nói sao cho hết. Chẳng là anh trót yêu em vậy em
biết không? Mà khi yêu nhau, trong những đêm sao hằng hà, làm
thế nào để quên được nhau
Hỡi Liên những Liên và Liên
(“Nói về dĩ vãng” - Liên, Đêm Mặt trời tìm thấy,
1964)
Sự phá vỡ kết hợp cú pháp “chuẩn” thực hiện bằng hai
cách. Thứ nhất, ngắt câu và tổ chức câu một cách bất thường, “bóng tối lặng
thinh em hát lên làm sao mà chịu đựng”, theo cú pháp thuận lẽ ra là “bóng tối lặng
thinh làm sao mà chịu đựng em hát lên” - cách này rõ ràng “tầm thường”, hay câu
không trọn vẹn, dở dang “Chẳng là anh ngông cuồng kiếm tìm tổ quốc vậy em biết
không”. Cách thứ hai, dùng các giới từ với mật độ dày đặc, “dù”, “chẳng là”, “vậy”,
“thì”, “mà”... trong những kết hợp hoàn toàn mới, không theo quy tắc thông thường,
khiến cho các thành phần nghĩa của câu không khép lại chặt chẽ trong tập hợp nội
dung xác định, mà xoay mở theo nhiều hướng khác nhau. Vừa nhoè mờ lung linh vừa
tiềm tàng những trữ lượng ngữ nghĩa nhiều tầng bậc, kể cả sự “dở dang”.
Phá vỡ đơn vị câu, tức là phá vỡ nội dung biểu đạt trọn vẹn
theo cách thức thông thường, chính là mở ra những khả năng mới mẻ vô tận cho từ
ngữ, không chỉ là những lối kết hợp khác về ngữ nghĩa mà còn làm sinh sôi nội
hàm trong những từ nguyên.
Trong thơ tình, trong ẩn ức sầu thương của luyến ái,
Thanh Tâm Tuyền bộc lộ rõ nhất những chuyển dời về năng lực ngôn ngữ của ông.
***
“Không đa đa siêu thực / thẳng thắn / khởi từ ca dao sang
tự do”, nhà thơ tự tuyên ngôn về đường thơ của mình. Tuy nhiên, những dấu vết của
lối nói ca dao tương đối “lộ liễu” trong thơ Thanh Tâm Tuyền gần như chỉ có vài
ba đoạn:
...
những ngón tay những gót chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương
tháng chín
cho thơm đường hôm nay đến sớm mai...
...
Thí dụ. Trưa nắng giữa ngã năm ngã
sáu có chợ có ga đường tàu mải miết...
...
sao chưa dừng lại em ơi
trong kia làng mở hội
em vào vườn trèo lên cây bưởi
mời mọi người dự đám cưới đôi ta...
(“Người yêu” - Tôi không còn cô độc, 1965)
...
Mưa bên kia sông mưa nửa dòng nước
ta thương cô mình như bước nhớ
chân...
(“Mưa ngủ”, tặng Trần Thanh Hiệp - Tôi không còn
cô độc, 1965)
Ngoài cách thức liệt kê hàm ý tăng tiến, tạo hiệu ứng cộng
hưởng, lối nói trùng điệp liên hoàn của đồng dao, rất ít hình ảnh, lối gieo vần
của ca dao, thật khó lòng chỉ ra những “ảnh hưởng” khác về mặt tổ chức nghệ thuật
từ thơ ca dân gian tới thơ Thanh Tâm Tuyền. Kể cả lối so sánh ví von cũng được
ý tưởng hoá , “bước-nhớ-chân”, hình ảnh ẩn dụ giảm tối thiểu, “hồn nhiên tôi trở
thành thi sĩ ca dao nhẹ những nhát cuốc đầu xới lần áo mỏng ruộng đồng”. Vậy
thơ Thanh Tâm Tuyền “khởi đi” từ phẩm chất nào của ca dao? Tinh thần thẳng thắn,
quyết liệt? Tính cách duy cảm? Tâm thế bi mẫn?
Có lẽ, thơ Thanh Tâm Tuyền khởi đi từ phẩm chất trong
sáng của ca dao.
Ngay từ những tuyên ngôn về hình ảnh trong Tôi
không còn cô độc:
Mỗi bài thơ khi viết tôi đều nghĩ đến một người...
chưa bao giờ tôi viết bài thơ nào trống trơn
tôi sống thường trực bằng hình ảnh
(“Hình ảnh” - Tôi không còn cô độc, 1965)
Đây là một ý tưởng thuần khiết chứ không phải hình ảnh.
Cho đến sự dư thừa chen lấn các hình ảnh, phá vỡ trật tự
phối cảnh và trật tự mô tả:
...
tôi sống thường trực bằng hình ảnh
cửa sổ mở ánh sáng bình minh
ngoại ô nhà ngói đường xe điện
sân ga đường dan díu chân trời
bến tàu phu khuân vác ống khói...
Cho đến những hình dung đầy cảm giác siêu thực:
...
hãy yêu nhau rất tình cờ
như mặt trăng may mắn thoát ra ngoài vòm mây
chiếc đầu máy mệt nhọc dừng lại một ga nhỏ
với một ngọn đèn đêm
một người giữ ga già mặt đồng hồ kim
không chuyển động
và rừng khuya không tiếng vang
(“Tình cờ” - Tôi không còn cô độc, 1965)
Tất cả đều khởi đi từ những ý tưởng trong sáng, chặt chẽ,
không sa đà vào phức rối, nhiễu loạn cảm giác hay hình ảnh. Mặc dầu sự buông lỏng
và bộc phát của cảm xúc, thơ Thanh Tâm Tuyền bao giờ cũng sáng rõ bởi năng lượng
phát kiến, ý nghĩa suy tưởng, và năng lực sáng tạo ngôn từ nhuần nhuyễn, vừa dễ
dàng chạm tới cái phù ảo mộng tưởng của cảm thức, vừa chính xác, chân triết, mạch
lạc của trí tuệ khác thường.
So với cái trong sáng sơ khởi của ca dao, được hiểu như
là sự nhuần nhuyễn của kinh nghiệm, những triết lý dân gian với cảm giác ý vị,
tiết chế, những rúng động nuột nà trau chuốt, đôi khi phá cách, thơ Thanh Tâm
Tuyền có nét tương đồng nhưng là bước vượt xa về năng lượng suy tưởng, tính
cách đa dạng, tinh tế của thế giới hình ảnh cũng như tri thức.
***
Biết chết trước khi biết sống, chứng nghiệm đổ vỡ mất mát
trước khi thụ cảm sinh lực, an toàn, nuôi dưỡng... Đó không chỉ là thái độ ứng
xử của con người trong một thời đại bất an, khi những giá trị được xây đắp bền
vững dựa trên niềm tin, luận lý và một số giải pháp khoa học cũng như tưởng tượng
được cho là ưu việt, bị lung lay đến tận gốc rễ. Con người bị xua đuổi khỏi nơi
trú ẩn quen thuộc - ảo tưởng về một sự nhận biết thế giới thấu đáo, theo những
logic phổ quát, lý tính. Trong bối cảnh ấy, sự thông tuệ cao nhất của con người
chính là hướng tới kiếm tìm những động lực khác tiềm tàng trong đời sống, những
ẩn ức bên ngoài lý tính, sự dị biệt, đơn lẻ, như những bằng chứng chống lại cái
thấu suốt nghèo nàn, và sáng tạo cách thức suy tưởng xoay chuyển những gì đang
có.
Là nhà thơ, Thanh Tâm Tuyền đem vào thế giới thi ca của
mình những chất vấn cô đọng, những suy tưởng mãnh liệt về tồn tại và nhận biết,
bởi đó cũng chính là giá trị sau cuối của thơ cũng như nghệ thuật và các sáng tạo
văn hoá.
Xuất phát từ triết học Đông phương nhuần nhị, với tinh thần
vượt thoát, đột phá của thế giới đương đại, nhờ một ngôn ngữ trau chuốt, tinh lắng,
tiết giảm tối đa nhưng cũng đầy tràn năng lượng bùng nổ và phá huỷ, nhà thơ
dành cho bạn đọc một quan niệm mới mẻ về con người, đó là ẩn ức bi thương,
trong niềm tin cậy chắc chắn vào tính vô định của thế giới. Vô định không phải
một nguy cơ, mà là sự nuôi dưỡng, nguồn sinh lực tốt lành.
Như vậy cuộc đời dù sao cũng đáng phải nhìn nhận lại,
không phải sinh ra, viên mãn rồi huỷ diệt, mà thực ra là đã huỷ diệt trước khi
khởi đầu một quá trình mới. Người ta lẽ ra phải đặt nền móng cho mọi kiếm tìm,
hình dung khởi từ đây...
KHÁNH PHƯƠNG
Nguồn: TIỀN VỆ
______________________
[*]Xem “Những khái niệm then chốt của mỹ học Nhật Bản”, Suzuki Setsuko (chủ
biên), bản dịch của Hoàng Long.
------------
Ghi chú:
Bài viết chỉ khảo sát hai tập thơ Tôi không còn cô độc
(nxb Người Việt, 1956) và Liên, Đêm Mặt trời tìm thấy (nxb Sáng tạo, 1964) của
Thanh Tâm Tuyền, trong phạm vi sáng tác gắn liền với dòng chảy văn học miền Nam
Việt Nam, theo phân kỳ lịch sử văn học. Trong giới hạn một bài tiểu luận, chúng
tôi khó lòng giữ nguyên trình bày nguyên gốc của một số bài thơ ở các phần trích dẫn,
mong quý bạn đọc lượng thứ.