Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
Chưa bao giờ
hình ảnh tổ tiên, cánh đồng, ngọn gió, dòng sông, ngôi nhà lại day dứt cắt xé
lòng ta đến thế, dù nó đã bị cả hai lần tan nát- một lần do trận bão canh tân
cào xé, một lần do chính những tưởng tượng liên tưởng mới mẻ, bất ngờ phong phú
và táo bạo của thi nhân.
Nguyễn Quang
Thiều lắng nghe những đổ vỡ sâu sắc trong đời sống tâm linh văn hóa trước mỗi
bước đi của kỷ nguyên đô thị hoá, công nghiệp hoá.
Ðến nỗi, có cảm
giác như thi sĩ cảm nhận được những cái chết đang thấm vào trong từng tế bào đời
sống, những bữa cơm gia đình cũng trở nên nặng nề khủng khiếp với những đổ vỡ,
bóng tối, ám ảnh, sợ hãi, đợi chờ...
Trong
"Bài ca về buổi tối" cuộc sống thiên nhiên trở thành thế giới của người
chết, nơi vòm lá cây, vầng trăng sáng và làn gió trong rèm đều trở thành tín hiệu
của người chết, âm vọng những tín hiệu của cõi âm.
Ðời sống trở
nên rùng rợn, tối tăm và bất trắc, giả hình. Người sống trở thành con rối của
người chết. Tìm kiếm địa ngục trong cõi sống, nhà thơ như một Ðantơ đang lội
ngược dòng để chứng kiến một thế gian đầy dung tục, tội lỗi và sám hối, trong
đó con người bị vò xé về mặc cảm đạo đức, trở thành những kẻ mộng du.
Cái dung tục của
thế giới trong Người đàn bà gánh nước sông" là cái dung tục của những người
bị "bệnh điên ánh sáng", còn cái dung tục trong thế giới của
"Bài ca những con chim đêm" là sự mê muội, vô học, a dua đến kệch cỡm
của buổi giao thời công nghiệp hoá, đô thị hoá.
Con người hôm
nay trong thơ Nguyễn Quang Thiều không chỉ đánh mất những trong trắng trinh
nguyên, ban sơ, đánh mất những bóng cây cho kẻ lạ, đánh mất thiên nhiên trong đồ
vật, đánh mất ký ức làng quê trong màu vôi trắng đồng loạt mà còn đánh mất
chính mình.
Trong "Những
người lang thang" ta thấy rõ cánh đồng, bầu trời, chim chóc, cỏ cây không
còn là nơi cư ngụ của hồn quê như trong các bài thơ trước của Thiều mà đã bị tả
tơi, nhàu nát, biến dạng, trên đó những ma quỷ bắt đầu cư trú và nhảy múa.
Những ngôi nhà
chạy trốn, những ngôi nhà bị quét vôi trắng, dòng nước hiền lành bỗng trở nên một
quái vật hung tợn, cây xanh bị cắt xẻ...,nước sông thì câm lặng, chết chóc,
hoang vắng và quạnh quẽ, đầy những bất trắc cuồng nộ.
Những hàng cây
thì đau ốm, lụi tàn, bị cắt xẻ, bị giật đổ sau bão, rũ rượi trong đêm vẫn cố ôm
ghì những ký ức tuổi thơ và đau đớn vì không nhận ra con người hôm nay nữa.
Những bông hoa
thì luôn phải gắn với nghi lễ, tham dự vào nghi lễ, cả khi mệt mỏi lụi tàn và
cô quạnh và du đãng vẫn cố ánh lên những chất thơ xa, những giấc mơ xa...
Mỗi vật mỗi
người đều có số phận riêng, nỗi đau riêng và sứ mệnh thơ ca riêng, nhưng đều kết
nối lại làm nên "Một sự sống lặng câm dưới những đám mây mang theo cái chết,
bên cạnh một cái chết thét gào đòi được phục sinh".
Tha hoá, nọc độc,
cái ác và sự vô cảm đang xâm chiếm con người, chính nhà thơ cũng cảm nhận được
từng khoảnh khắc mắt mình hoá sỏi đá, lưỡi mình thành nọc rắn.
Những động từ
mạnh mẽ, dữ dội biểu lộ một trạng thái chia cắt, xung đột, dung tục và tan rã của
đời sống: Cắt, xé, gào, chửi, tranh giành, khóc rống, tố cáo, kết tội... những
động từ hình sự, phi thơ nhưng lạc trong thế giới thơ Thiều nó bỗng mang chất
thơ Rock day dứt và quằn quại.
Kỷ nguyên mới
đô thị hoá đã xáo trộn sâu sắc về văn hoá. Mọi đồ đạc trong căn nhà của thi
nhân đều như bị trải qua một cơn động đất, lung lay, thao thức và tản mát đầy
những lo âu như sắp sửa bị đứt khỏi sợi dây nối với cội nguồn văn hoá tâm linh
cũ.
Tất cả đều như
nhuốm màu chết chóc, như bị ma ám, bị sơn phết bởi một màu trắng tang tóc của sản
phẩm đồng loạt thời kỳ công nghiệp hoá. Nhà thơ luôn ám ảnh bởi sự bỏ đi của
chiếc bóng - chiếc bóng đó chính là những ký ức văn hoá, những hồn vía ông cha.
Mỗi khi nói đến
cái cũ - mái nhà cũ, quần áo cũ, con đường cũ, hàng cây cũ, bát đĩa cũ... nhà
thơ lại như thăng hoa trong lễ cầu hồn, những đồ vật cũ xa được chiếu bởi một
thứ ánh sáng xa xăm, đầu sắc thái huyền thoại, trở nên thoi thóp và run rẩy
trong tiếng khẩn cầu gan ruột.
Tràn ngập
trong tập thơ là một nỗi sợ hãi bất lực trước sự lãng quên, tàn phai đơn điệu của
đời sống đương đại, một khát vọng về nguồn tìm lại quê hương xa, linh hồn xa vẫn
khắc khoải thẳm sâu trong tâm khảm nhà thơ.
Cuộc sống đô
thị hoá thách đố những ký ức, đe doạ trí nhớ của thi nhân. Trong thơ Nguyễn
Quang Thiều có một sự nổi dậy của các biểu tượng văn hoá truyền thống chống lại
sự xói mòn, huỷ hoại và hư vô hoá ấy.
Trí nhớ văn
hoá vẫn tiềm ẩn trong những hàng cây, những ngôi nhà, những cánh đồng, những
đoá hoa như ở các tập thơ trước, nhưng giờ đây những biểu tượng đó không còn
câm lặng dày vò nữa mà đã thét lên những giai điệu giải phóng.
Mùa hoa loa
kèn thoạt tiên gợi những ký ức tóc tang bi thảm với hình ảnh những nhạc công
già, những điệu kèn mới của bình minh và sự sống trên tay nhà thơ, người nhạc
công sót lại cuối cùng.
Thiên chức của
nhà thơ là tham dự vào nghi lễ của đất trời, nhưng anh ta phải đem đến những tiếng
kèn mới, những giai điệu đầy sức sống. Ðó là tuyên ngôn văn học của nhà thơ
trong tập thơ này.
Giữa những âm
thanh chết chóc, đổ nát và hỗn loạn, nhà thơ lắng nghe tiếng con chim đêm, tiếng
ca trong giấc mơ mong manh của bầy trẻ. Thế giới như bừng tỉnh trong tiếng chim
khai sáng, những giá trị trinh nguyên buổi ban sơ như được phục sinh thoát khỏi
những tha hoá, ảo tưởng và ngộ nhận.
Ðến nỗi cái thế
giới nhốn nháo kia trở nên một cái nền thanh bình câm lặng để vút lên tiếng
chim "rền rĩ" " xối vào không gian", "rống lên làm hoảng
sợ những vòm cây". Tiếng chim đêm bỗng trở nên dữ dội, bi hùng tạo ấn tượng
về sự quật khởi hùng vĩ của sự sống của cái đẹp, của chất thơ, của lương tâm và
sự thanh bình trong sạch, gây nên một cú sốc thẩm mỹ làm ta gai người.
Cái gắng gỏi nỗ
lực giải phóng của lương tri, của thiên nhiên và cái Ðẹp mới cảm động làm sao,
nó thức tỉnh ta, thanh lọc ta, làm ta trong giây lát trở nên giác ngộ, mạnh mẽ
và thánh thịên.
Tiếng chim làm
phục hồi trí nhớ, phục sinh lịch sử, tẩy rửa thế gian, lột phăng những lớp vỏ
dung tục, tội lỗi, xấu xa, mê sảng và chết chóc vẫn phủ choàng lên nó. Dường
như ta giác ngộ ra "bản lai diện mục" của đời sống, vượt khỏi những
mê lầm. Tiếng chim đêm- cái Ðẹp đã khai ngộ Phật tính trong ta.
Tiếng kèn mới ấy,
tiếng chim đêm huyền thoại đầy sức mạnh khai sáng ấy chính là những âm thanh
mang sức mạnh cứu thế của cái Ðẹp vang lên trong từng câu từng đoạn của tập
thơ.
"Bài ca
những con chim đêm" là bài ca về sức sống mãnh liệt và quằn quại của cái đẹp,
của thơ trước một thế gian tội lỗi và dung tục. Người đàn bà, con trẻ, ngôi
nhà, nước sông, chim, hoa và cá là những hình tượng ám ảnh trong thơ Thiều.
Chúng kết hợp
với nhau thành một chuỗi hình tượng liên hoàn độc đáo, tạo nên một thế giới
riêng vừa yếu ớt vừa mạnh mẽ, vừa đau đớn vừa hạnh phúc, vừa ma quỷ vừa thánh
thiện, vừa từng trải vừa dại dột, vừa là nạn nhân vừa là người khai sáng, một
thế gian thu nhỏ với đầy đủ cả đất trời, cỏ cây, thần thánh, gia đình. Ðó là
chuỗi hình tượng làm nên mã số đặc biệt của "Bài ca những con chim
đêm".
Cái ác mượn lốt
nước, lốt mây, lốt hoa và cả lốt người nhng nó không bao giờ mượn được lốt cây.
Cái cây trong thơ Thiều là một ám ảnh vĩnh viễn là thánh địa của tình thương,
cái Thiện và cái Ðẹp, trí tuệ và sáng tạo.
Cây soi sáng,
cây dẫn lối, cây làm chứng, cây chở che, cây mang những giấc mơ, cây cho thi
nhân và con trẻ mượn hình hài, cây phục sinh mãnh liệt trước tiếng chim đêm bi
tráng.
Cây trong thơ
Thiều như kho báu cất giữ những ký ức, những thói quen, những tầng văn hoá cổ
xa để cưu mang, bảo tồn nhân tính và cái đẹp. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ tự
coi mình là cái cây "Tôi đứng như một thân cây tối sẫm". "Thân
cây tôi sẫm" chính là cái thân cây mang ánh sáng của thi ca.
Với "Bài
ca những con chim đêm", Nguyễn Quang Thiều đã kết nối và hoà giải được
thiên chức của nhà thơ luôn là kẻ canh giữ những ngôi đền, những báu vật quê
hương với trí tưởng tượng lang thang phóng đãng của kẻ quên nhà, trẻ dại, kẻ du
ca.
Chính điều đó
đã làm nên một trong những đỉnh cao của thơ Việt nam đương đại, khiến thơ Thiều
trở nên một bảo tàng lộng lẫy chứa đựng một hồn vía xa cũ của ông cha trong một
ngôn ngữ thơ cách tân mới mẻ.
Nó giống như
nhạc Rock bảo tồn hồn vía của người Phi, kịch B.Brecht bảo tồn hồn vía kịch
phương Ðông và những vũ điệu của E.Sola bảo tồn hình ảnh những con người nhà quê
khổ đau, lam lũ và cao cả.
ĐỖ MINH TUẤN
Nguồn: NVTPHCM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét