Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2019

NHÀ VĂN VĂN CHINH VÀ SỰ 'KHÔNG GIỐNG AI' TỪ NHỮNG THIÊN TRUYỆN NGẮN

Hơn ba mươi năm, ngót bốn mươi năm trôi qua, ông nhà văn Văn Chinh của bây giờ vẫn giữ được sự “không giống ai” mà Nguyễn Tham Thiện Kế từng nhận thấy.
Nhà văn Văn Chinh. (Ảnh: X.T.).

Trong cuốn chân dung văn học “Miền lưu dấu văn nhân” (NXB Hội Nhà văn, 2013), ở bài viết về Văn Chinh, nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế kể lại rành rẽ cái ấn tượng hơn ba mươi năm trước của mình, năm 1980, khi gặp Văn Chinh ở một trại sáng tác do Hội Văn nghệ Vĩnh Phú tổ chức: “Chiếc túi đen ka-ki thêu một bông hoa cúc tí xíu, đựng bản thảo ngoắc ghi-đông. Ba-lô quần áo cũng buộc luôn đó. Áo sơ-mi cộc tay, mỏng như xô màn, đóng không hết khuy để lộ ra mảng ngực nâu bóng, căng tràn nhựa sống. Quần vải tổng hợp màu rượu chát, từng được chạy qua bàn là phẳng căng nhưng chủ nhân ưa ngồi xổm nên nó đã kịp xoắn lại như lò xo ngang ống chân gân guốc” (“Văn Chinh và đối cực”). Chân dung một nhà văn tỉnh lẻ thời bao cấp, vừa nồng nã bụi đất quê lại vừa phơi phới cái ngang tàng Lương Sơn còn được Nguyễn Tham Thiện Kế nhấn thêm vào một nét nữa, nét khụng khiệng kiểu cụ lý ở giữa chốn đình trung: “Khi ăn, Văn Chinh chọn ngay mâm chính giữa, ngồi vị trí trang trọng, cầm đũa huơ lên, cười bên này ngóng bên kia rồi mới bàn chuyện văn chương. Toàn bàn những chuyện không giống ai. Bao giờ cũng bắt đầu một câu quen thuộc, trịnh trọng nhuốm gây sự: Xin được hỏi ông (bà)... đây là nghị quyết hay là bản báo cáo tình hình sản xuất. Nếu là văn chương thì con người đâu?”.

Hơn ba mươi năm, ngót bốn mươi năm trôi qua, ông nhà văn Văn Chinh của bây giờ vẫn giữ được sự “không giống ai” mà Nguyễn Tham Thiện Kế từng nhận thấy. Năm 2018, nhà văn Văn Chinh tròn 70 tuổi, ông cho công bố tập truyện ngắn có cái tên “Thần thức dưới rêu phong” (NXB Hội Nhà văn) gồm nhiều truyện được ông viết ở nhiều giai đoạn khác nhau trong đời cầm bút, nên về cơ bản cũng có thể xem như một tuyển tập mang tính đại diện nhất định cho diện mạo và phong cách truyện ngắn của mình. Có thể nói ngay rằng: những truyện ngắn này đã có công góp vào cái “không giống ai” cho Văn Chinh, vì bản thân chúng cũng rất... không giống ai.

Không giống ai, bởi trước hết, về cấu trúc, hầu hết các truyện ngắn của Văn Chinh đều lệch/ chệch hoặc đi hẳn ra ngoài các mô hình cấu trúc truyện ngắn phổ biến. Những khái niệm mà ta thường gặp trong phân tích truyện ngắn, như: “một lát cắt của hiện thực đời sống”, “khoảnh khắc truyện ngắn” hay “cao trào”, “thắt nút”, “mở nút”, v.v… đều khó mà áp được vào các truyện ngắn của ông. Cách kể chuyện của Văn Chinh, từ nhập đề, đến dẫn dắt câu chuyện và kết thúc, mang khá đậm hơi hướng, cung cách của truyện kể truyền miệng, kiểu “đêm hè mẹ kể con nghe”, hoặc truyện kể của những nghệ nhân hát rong thời xa xưa nơi góc đình quán chợ. Chúng “mềm” về bố cục, mềm tới mức luôn có xu hướng chảy tràn và làm loãng cốt truyện bởi những trữ tình ngoại đề hoặc những tình tiết mới, được nảy sinh theo một cách bất ngờ và khá “mất trật tự”. Đấy là nét duyên của Văn Chinh, khi ông có thể khiến độc giả được hưởng thụ cái khoái thú của “miên man đọc” trong sự chế định của “rề rà kể”. (Khi viết “Thay lời giới thiệu” cho tập truyện ngắn này, nhà văn Sương Nguyệt Minh nhận định: “Cái sự rẽ dọc rẽ ngang miên man này cũng là cái khác lạ làm nên giọng điệu Văn Chinh. Tuy nhiên, cái ranh giới giữa trữ tình ngoại đề nghệ thuật với “khoe” kiến thức triết học, sử học, văn hóa… rất mong manh, không phải lúc nào ông cũng dẫn dắt được mạch cảm xúc nghệ thuật”). Nhưng đấy cũng chính là nguyên do khiến không ít lần người đọc có cảm giác hẫng hụt khi truyện ngắn Văn Chinh đi đến cái kết của nó. Kết truyện, nhưng câu chuyện không chịu khép lại, nó cứ ở đấy, ngổn ngang những người và việc, dở dang như sự đời vốn chẳng mấy khi được chu toàn như ta muốn, xộc xệch như những thiên đường không bao giờ hoàn hảo. “Ai biết mộ liệt sĩ ở đâu”, “Mừng nỗi buồn qua”, “Chiếc đồng hồ một kim”, “Chị Mỵ làng Minh Quang”, “Con tàu tuổi thơ”, “Mùi trần”, “Ghi chép của ngài Appin về con ngựa hãn huyết”, v.v… là những truyện ngắn như thế. Thử lấy ví dụ bằng truyện “Ghi chép của ngài Appin về con ngựa hãn huyết”, giải Ba truyện ngắn 2011–2012 của báo Văn nghệ, theo tôi, được cấu thành từ một chủ ý tạo nên nhiều nghi vấn và… chưng hửng. Ngay dưới nhan đề truyện, tác giả chua một dòng lạc khoản: “Gửi tác giả Tô-tem sói”, nhưng rốt cuộc, đọc mãi nghĩ mãi tôi vẫn không dò ra được cái mối liên văn bản giữa tác phẩm của Khương Nhung với câu chuyện lưu lạc đầy ly kỳ mà con ngựa hãn huyết nòi Mông Cổ kể lại với ngài Appin? Chưa hết, cứ theo như phi lộ vào truyện thì ngài Appin sang Mông Cổ là để xem ở những nước hay gây chiến thì “hoàng gia được cái gì, thường dân được cái gì trên những cái chết của các chiến binh”, nghĩa là một lý do hết sức nghiêm trọng, và quả thật, câu chuyện mà con ngựa hãn huyết được đánh số 054 ấy kể lại cũng đầy vẻ nghiêm trọng, khi phần nào nó phơi bày được những cái nhếch nhác quái quỷ mà chiến tranh, và những sự kiện còn hơn cả chiến tranh, đã gây nên trong đời sống của đại chúng cần lao. Thế nhưng, phần kết truyện, lời đáp cho mối băn khoăn của ngài Appin lại là một cú chơi khăm với cái nghiêm trọng, khi Tổ của con 054 dặn cháu mình rằng: “hễ thấy trong người rậm rật thì hãy tạm ngừng ăn nếu trong đàn không có ả nào động dục, chớ để rậm rực lâu ngày tất sinh tính ác”. Một cách lý giải đầy trào tiếu về “tính ác” như là cái căn rễ của hành vi phát động chiến tranh. Và bởi thế, mới có câu khép lại thiên truyện mà thật ra là chẳng khép lại cái gì, của ngài Appin: “Đêm ấy… lần đầu tiên tôi biết trong việc ngủ với đàn bà là có tinh thần nhân đạo, nên sướng hơn mọi bận. Kể cả trừ đi phần tương tác là người nước ngoài, vẫn còn sướng hơn”.

Tôi muốn nói thêm về một đặc điểm nữa, khá trội bật, ở những truyện ngắn loại này của Văn Chinh: chúng “ngắn”, nhưng lại mang tham vọng ôm trọn những hiện thực dài rộng, có khi đến cả một đời người. Những cuộc trăm năm nhân thế với biết bao cơn chìm nổi ấy, đương nhiên, miền dư địa đầy vẫy gọi của nó phải là tiểu thuyết. Còn thể loại truyện ngắn, với trên dưới mười trang sách in, sẽ là một thách thức không nhỏ cho người viết trong việc bày binh bố trận, dàn dựng cảnh huống, lọc lựa chi tiết trước sau để tạo lập một cấu trúc văn bản chặt chẽ, tuy nhỏ gọn mà vẫn đủ sức dung chứa những ba động lớn của cuộc đời. Truyện ngắn của Văn Chinh, nói chung, thỏa mãn đòi hỏi ấy. Thế nhưng, nó vẫn không khỏi gợi lên cái mà ở trên, tôi tạm chỉ định bằng cụm từ “mất trật tự”. Tôi sẽ lấy truyện“Ai biết mộ liệt sĩ ở đâu”, giải Ba truyện ngắn 2005–2006 của tạp chí Văn nghệ Quân đội, làm ví dụ. Truyện ngắn này không kể một cuộc đời, mà kể đến năm cuộc đời: người mẹ không chồng mà chửa, đứa con không cha, ông bố dượng đầy “chất nghệ”, ông bố đẻ “một vị tướng có tài, chỉ mỗi tội thích ngủ với gái non”, và ông bố hờ chẳng được tích sự gì ngoài việc làm kẻ “tráng men” cho đứa khác, rồi chết. Tác giả cố tình để giọng của người kể chuyện và giọng của nhân vật nhòe lẫn với nhau, rất khó bóc tách.

Không giống ai, bởi ở tuyển tập này Văn Chinh còn có một mảng truyện ngắn mà ở lời “Tựa”, ông tự gọi là “viết lại”, học theo cách “Chuyện cũ viết lại” của văn hào Lỗ Tấn. Bộ ba truyện “Thị” – “Puellae” – “Gái”, rồi các truyện “Dưới rêu phong”, “Trái tim bốc khói”, “Cựu hoàng”, “Văn tự án liệt truyện”, v.v… là những truyện khá tiêu biểu. Viết lại của Văn Chinh không nhằm vào một văn bản cụ thể, mà là liên và xuyên văn bản. Đặc biệt, khi sự viết lại diễn ra ở khu vực của thư tịch lịch sử, như truyện ngắn “Dưới rêu phong”, Văn Chinh hiện diện như một nhà văn đang hăm hở tranh cãi với sử gia về cái gì là sự thật: sự thật của việc một vương triều sụp đổ, sự thật trong tâm hồn một bà hoàng hậu mà sau bao nhiêu thế kỷ, thành tượng thờ rồi, ánh mắt “còn thèm khát thế kia!”. Không những thế, có thể nói, “Dưới rêu phong” còn là một sự giải ảo lịch sử của Văn Chinh: những rồng bay phượng múa huyền hoặc, những sơn son thếp vàng lung linh về hai triều Đinh, Lê trong tâm thức hậu thế đã bị nhà văn gột sạch bằng cách kể chuyện thấm đẫm tinh thần trào tiếu nhưng lại tàn nhẫn như lột vỏ củ hành. Lột hết lớp này đến lớp khác, lột đến đâu cay mắt đến đấy, để rồi cuối cùng sự thật hiện ra, trơ khấc. Rằng triều đại khai mở cho nền độc lập dân tộc thật ra vô cùng hoang sơ, cái gọi là vương pháp chưa hề được thiết định chặt chẽ, những thúc đẩy bản năng của con người có khi còn mạnh hơn sức ràng buộc của đạo đức và các lợi ích chính trị xã hội. Thế nên cái việc ăn, uống và giao cấu chốn cung đình mới phóng phiếm buông tuồng đến thế, đàn bà mới thọc tay vào chính sự sâu đến thế, và sự chuyển giao quyền lực giữa hai triều đại mới nhanh gọn và nhiều thảm khốc đến thế

Vẫn là nhà văn Sương Nguyệt Minh bình luận: “Đọc văn Văn Chinh tôi thấy trong ông có hai con người. Một con người có cái cách bộc trực nồng nhiệt, có cái vẻ khệnh, vênh vênh râu, có cái bốp chát chân thành tức thì, có cái lọc lõi trải đời, có cái sự chịu đọc, có cái thất thần thảng thốt, có cái “sục sặc không yên” (chữ Vương Trí Nhàn dùng). Một con người có cái khờ dại đáng yêu, có cái yếu đuối mặc cảm cứ gồng lên”. Như thể để chứng minh bình luận ấy, nhà văn Văn Chinh cho biết, tuyển tập truyện ngắn “Thần thức dưới rêu phong” này là cú chuẩn bị cho sự ra mắt một tác phẩm mà ông ấp ủ đã lâu, cuốn sách cuối cùng của một đời cầm bút: tiểu thuyết “Nằm ngửa đấm với”. Nằm ngửa đấm với, hình ảnh ấy có thể “đọc” như một nỗ lực chân thành nhưng đầy tuyệt vọng, chính vì thế mà nó hài hước, thậm chí như trêu ngươi. Và đương nhiên, cũng là một sự không giống ai.

BẢO TRÂN
Nguồn: Tinh Hoa Việt

XEM BÀI KHÁC:

·         TIẾNG NƯỚC TA


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHÀ VĂN THÙY DƯƠNG: TRĂN TRỞ VỚI MỖI THÂN PHẬN NGƯỜI

Nếu không biết Thùy Dương sinh ra và lớn lên ở Hải Dương, sẽ đoán   chắc nàng là người Hà Nội gốc. Gọi là nàng v ì nàng không chỉ xinh đẹp, ...

BÀI ĐỌC NHIỀU