Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2018

GẶP GỠ CUỐI NĂM VÀ NHỮNG ĐỐI THOẠI TRƯỚC THỀM NĂM MỚI

Mỗi dịp tết đến xuân về, đọc lại Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải, độc giả vẫn “gặp gỡ” nhiều điều thú vị. Tiểu thuyết được viết năm 1981, cách đây đã 37 năm, trong một sinh quyển ít nhiều khác biệt. Nhưng những vấn đề đặt ra trong truyện vẫn chưa cũ, vẫn có sức quyến rũ đối với người đọc hôm nay.
Nhà văn Nguyễn Khải

Gặp gỡ cuối năm - đúng như cái tên của nó - kể về cuộc gặp gỡ tại một bữa tiệc tất niên. Chị Hoàng - chủ nhà, chủ trì - đã khiêm nhường thông báo trước là bữa tiệc “rất xoàng”, vì thế, mỗi vị khách có mặt cần phải góp một câu chuyện thật hay để bữa tiệc thêm phần hấp dẫn. Bà chủ nhà bí ẩn này như đang muốn lắng nghe, đồng thời muốn bày tỏ một điều gì đó quan trọng khi năm cũ kết thúc, năm mới bắt đầu.

Cuộc gặp gỡ tiến diễn hết sức tự nhiên. Việt - nhà văn quân đội, người kể chuyện - đến sớm nhất. Sau Việt là anh Quý - luật sư, từng là viên chức của bộ ngoại giao ở chế độ cũ. Anh từng rất thành công trong sự nghiệp nhưng rồi anh bị rơi vào mặc cảm thất bại. Sau bao nhiêu trải nghiệm cuộc sống, bây giờ anh muốn né tránh mọi chuyện, cười nói như một kẻ vô tâm. Nhưng đó chỉ là cái vỏ bề ngoài, trong thâm tâm anh là cả “một nỗi niềm, một chí hướng, một nhớ tiếc nào đó”. Đến thứ ba là vợ chồng anh Hảo. Anh Hảo là luật sư được đào tạo ở Pháp, từng làm tri huyện nhưng sớm treo ấn từ quan để đi theo kháng chiến, từng được giao giữ chức vụ quan trọng trong chính quyền cách mạng. Là một “công tử” đi làm cách mạng, có lúc anh được tin tưởng, có lúc bị nghi ngờ nhưng lúc nào anh cũng sống đúng là mình, “dám nói to những điều anh cho là đúng”. Người đến thứ tư là anh Đại, đã tám mươi tuổi nhưng vẫn rất galant và hóm hỉnh. Anh trước kia là kĩ sư hóa học được đào tạo ở Đức, không theo khuynh hướng chính trị nào nhưng ủng hộ nhiệt tình tất cả các phong trào yêu nước. Anh bị bắt, bị tù đày, bị mất hết gia sản cũng chỉ vì yêu nước. Đến thứ năm là anh Chương và Bình. Anh Chương là người có hai bằng tiến sĩ, một luật, một văn chương. Anh từng giữ các chức vụ quan trọng: viện trưởng một viện đại học, bộ trưởng quốc gia giáo dục, làm thượng nghị sĩ trong nhóm đối lập. Sau khi hòa bình được tái lập anh phải đi cải tạo rồi trở về làm một người dân thường, tâm tính đã có nhiều thay đổi. Còn Bình thì trẻ, đẹp trai, lịch thiệp, năng động, mới tốt nghiệp đại học vài năm nhưng đã là giám đốc một công ti. Theo nhận xét của anh Hoàng thì Bình “lịch sự, tinh tế như Pháp mà lại nhanh chóng, thiết thực như Mĩ”. Đến thứ sáu là Quân. Dưới cái vỏ bên ngoài là một nhà báo quốc tế, Quân tham gia công tác tình báo đã nhiều năm. Từng gặp rất nhiều loại người, phải đối diện với rất nhiều hiểm nguy nhưng Quân vẫn một lòng vì lí tưởng cách mạng. Quan điểm sống của Quân rất rõ ràng: “Quốc gia hữu sự, kẻ thất phu còn phải gánh trách nhiệm huống hồ là anh trí thức”, “Làm người đã khó, làm trí thức lại càng khó hơn. Hàng ngày phải lựa chọn, từng việc phải lựa chọn, lầm lỡ một chút là tiếng xấu để đời”.

Điểm qua các thực khách được mời dự tiệc tất niên, có thể khẳng định đây là cuộc gặp gỡ của trí thức thuộc nhiều thế hệ khác nhau, từng đứng ở các vị trí chính trị đối lập nhau. Sự góp mặt của các nhân vật có cuộc đời không hề “nhạt nhẽo” này dự báo câu chuyện đêm giao thừa sẽ có nhiều bất ngờ thú vị.

Cuộc gặp gỡ diễn ra trong không khí thân mật ấm cúng và đầy cởi mở như ý của chủ nhà. Chỉ trong thời gian một bữa tiệc, bao nhiêu câu chuyện hấp dẫn đã lần lượt được kể ra, chuyện xưa có, chuyện nay có, chuyện kinh tế, chính trị, tôn giáo, văn hóa, khoa học… đều có. Sau mỗi câu chuyện, người dự tiệc lại đưa ra những lời bàn thể hiện quan điểm cá nhân của mình. Hình như trong lòng mỗi người đều ăm ắp tâm sự, chỉ mong có cơ hội để được phơi trải, giãi bày. Từ câu chuyện về cách ứng xử kì quặc để thể hiện khí tiết của Nguyễn Thế Truyền, Quân cho rằng đó là kiểu “trí thức trùm chăn” và anh nêu rõ quan điểm của mình về cách hành xử cần có của người trí thức khi đất nước lâm nguy. Câu chuyện về “chú Phùng” và các mối quan hệ phức tạp đầy bất ngờ của nhân vật này với nhân viên C.I.A thể hiện nhận định riêng của Quân về các mối quan hệ phức tạp của các nước trong chiến tranh Việt Nam. Vấn đề lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể trong làm ăn kinh tế, mối liên hệ giữa miếng cơm manh áo và lí tưởng sống, sức mạnh của đồng tiền… được Bình nói đến bằng những câu chuyện đời thường hết sức sinh động. Rồi câu chuyện về những ngày sống ở Mã Đảo của anh Đại. Thoạt đầu tưởng chỉ là một câu chuyện “nhạt” của một ông già đã mất hết sự minh mẫn, nào ngờ chứa trong đó là nhiều câu chuyện về âm mưu, thủ đoạn và sự giành giật đến kinh hoàng. Rồi câu chuyện về thiền của anh Chương, anh Hảo cũng được mọi người hưởng ứng sôi nổi. Đâu chỉ là chuyện thiền, đó còn là chuyện nhận thức cuộc sống, lựa chọn cách sống, tâm thế sống trước những biến động. Câu chuyện tử vi số mệnh cũng thu hút sự quan tâm của cả người già và người trẻ. Từ chuyện tử vi, vai trò của con người trong việc chủ động hoán cải số mệnh đã được củng cố. Anh Chương không ngần ngại bày tỏ nỗi đau đời, sự mệt mỏi của bản thân trong cảnh ngộ hiện tại. Câu chuyện tranh giành quyền lực và sự chi phối của đồng tiền đến việc hình thành đại cục trong chính phủ Việt Nam Cộng hòa trước kia được anh Chương và Quân nói đến một cách say sưa. Anh Đại và Bình quan tâm đến mối quan hệ giữa đồng tiền và nhân cách… Cứ thế, mỗi câu chuyện hé mở một điều mới mẻ về sự thật trong quá khứ, sự thật đang diễn ra và cuộc đối thoại bình đẳng cất lên những tiếng nói cá nhân sâu sắc.

Gặp gỡ cuối năm, như vậy, là “hội nghị bàn tròn” của những người trí thức về các vấn đề xã hội. Trong “hội nghị” này không có sự phân biệt tuổi tác, vai vế, tư cách chính trị, mỗi người đều được quyền nói thẳng nói thật những nhận thức, quan điểm cá nhân của mình. Tác phẩm ra đời năm năm sau khi chiến tranh kết thúc. Đây là lúc những khách mời nhìn lại lịch sử, nhìn lại chính mình sau độ lùi thời gian cần thiết để rút ra bài học cho hiện tại và tương lai. Quân và Quý có chung nhận định, không ai có thể đứng ngoài chính trị, ngay cả những người nói là họ không quan tâm đến chính trị thì “không quan tâm” đã là một thái độ chính trị rồi. Vì thế mà mỗi người, đặc biệt là mỗi trí thức, phải hết sức thận trọng, “từng ngày phải lựa chọn, từng việc phải lựa chọn”, “lầm lỡ một chút là tiếng xấu để đời”. Anh Chương - người một thời lầm lỡ - khẳng định, đã là trí thức thì không ai bán nước cả, anh Hảo thành công do đi đúng đường, còn mình thất bại là do buổi đầu lựa chọn đường đi không đúng. Với anh Đại và Bình thì con người cần có lòng tự trọng. Khi đất nước có ngoại bang xâm lược, lòng tự trọng thể hiện ở việc đóng góp sức người sức của cho đất nước, ở thái độ bất hợp tác với kẻ thù; còn thời bình, lòng tự trọng thể hiện ở việc chiến thắng những ham muốn vật chất của cá nhân, dám từ chối quyền lợi cá nhân khi quyền lợi ấy mâu thuẫn với lợi ích tập thể. Bình quyết liệt hơn khi nói tới vấn đề đồng tiền…

Mỗi nhân vật đề cập đến một vấn đề khác nhau nhưng tất cả đều hướng đến trả lời câu hỏi: Phải sống thế nào trong năm mới, trong tương lai khi năm cũ, quá khứ đã khép lại? Anh Quý nguyện sẽ không vì “mưu cái lợi riêng mà nỡ phá phách sự nghiệp chung”. Anh Chương chỉ mong muốn được trở về với gia đình, làm một người chồng, người cha tốt. Anh Hảo vẫn tiếp tục chọn cách sống thuận theo tự nhiên bởi anh đã tìm thấy ở đó sự an lạc. Bình khẳng định, nếu người trẻ để sức mạnh đồng tiền cám dỗ thì sẽ mất tất cả. Quân mong muốn được là “một cái gì đó trong khoảnh khắc ta đang sống, là một sức đẩy dẫu là yếu ớt vào cái dòng lưu chuyển chung”. Chị Hoàng tỉ mẩn chuẩn bị bữa tiệc mà mỗi món là một món khoái khẩu đối với từng khách mời; chị còn chọn mặc bộ quần áo đẹp nhất, sang nhất trong thời khắc chuyển giao năm cũ và năm mới. Chị Hảo, chị Bơ cũng góp thêm mấy món ăn thật tết, thật truyền thống mà mình kì công làm để mời mọi người… Dù mỗi người mang một nỗi niềm, một tâm sự riêng nhưng đến giờ phút giao thừa, không ai bảo ai, tất cả cùng hân hoan nâng li chúc mừng năm mới. Qua cuộc gặp gỡ, đối thoại của các nhân vật, người đọc được phản tỉnh: Nên sống giản dị, thuận theo tự nhiên, không tham lam, không vị kỉ, nên hết sức tỉnh táo để không lầm đường lạc lối, không xa rời mục tiêu chung của dân tộc, nên là một lực đẩy chứ đừng là lực cản trong hành trình đi lên của đất nước...

Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải đã vượt lên giới hạn của buổi tiệc tất niên thông thường khi năm hết tết đến của một gia đình để trở thành cuộc gặp gỡ mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đó là cuộc gặp gỡ cần thiết của các thế hệ, của những trải nghiệm sống, những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong quá khứ để có thêm bài học cần thiết cho hiện tại và tương lai. Tác phẩm này cứ vẫn tươi mới chừng nào con người không thôi thiện chí và khát vọng làm mới mình, làm mới cuộc đời.

NGUYỄN THỊ QUẤT
Nguồn: VNQĐ



Thứ Năm, 27 tháng 12, 2018

XUÂN TRƯỜNG - “HAI VỆT NẮNG CHIỀU” VÀ CUỘC RA NGOÀI TỬ BIỆT SINH LY

Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ: Ra ngoài tử biệt sinh ly/ Văn chương góp một chuyến đi vô cùng...
Nhà thơ Xuân Trường (ngoài cùng bên trái) ở Gia Lai 2016
    
Trong “Hai vệt nắng chiều” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn tháng 9 năm 2018), Xuân Trường ưa dùng hai từ “hành trình” và “mằn mặn” (đôi khi là mặn mà hoặc mặn) trong những cảnh huống khác nhau và mang màu sắc tâm trạng khác nhau. Có thể tạm thống kê: “Dìu dặt một hành trình” trong “Huyền cảm sông Hàn”; “Hành trình hun hút” trong “Chiều Ái Nghĩa”; “Hành trình cơm áo” trong “Chiều quê”; “Xa xứ một hành trình” trong “Về Khánh Hòa”; “Đôi vai hành trình” trong “Trưa Dầu Tiếng”; “Gió sương hành trình” trong “Viết cho Lưu Ba”... và “Mằn mặn gió Thanh Khê” trong “Trưa Đà Nẵng”; “Gió Tam Thanh đang mằn mặn” trong “Mưa hạ Tam Kỳ”; “Biển mặn vào ta thoang thoảng ca dao” trong “Huyền cảm sông Hàn”; “Gió vẫn mặn hoàng hôn quanh chỗ ta ngồi” trong “Hoài niệm”; “Gió Mỹ Khê mằn mặn bước ta về” trong “Ký ức sông Hàn”; “Em mặn mà hơn xưa” trong “Nhớ An Khê”; “Nước mắt mặn cả chiêm bao” trong “Lần xuân bảy chín”; “Nghe nước mắt mặn mềm lên kỷ niệm” trong “Viết cho nhà thơ Thanh Tùng”...
   
Gộp tất cả những hành trình ấy và những mằn mặn ấy, độc giả có thể dễ dàng nhận ra một kết quả. Đó là một Xuân Trường ưa xê dịch, ưa bôn ba để trải nghiệm cùng đời sống, để chìm đắm và ngộ ra mùi vị của đời sống. Đó cũng là những bước chuyển động trong hành-trình-mặn hết mình mang hơi thở nhân sinh và thấm đẫm hương vị nhân sinh.
   
Với một người làm thơ, sự “mở ra” và “hướng tới” như vậy, là rất đáng trân trọng. Chúng như hành trang quý giá khi đến với thơ và gặp thơ trong những khúc quanh vô thường của mỗi đời thơ. Điều đáng mừng là cả sự “mở ra” và cả sự “hướng tới” đều chân thành, say mê và riết róng đến độ.
   
Đó cũng là hành trình giằng xé giữa cái đã qua và cái đang diễn ra, mà ở trong đó đã bao hàm sự dấn thân tất yếu không tránh khỏi, mà sau chót là cái bây giờ và cái ngay ở đây: “Bình minh và hoang hôn chất vấn nhau trong ta dữ dội/ Nên để ta già hay trẻ - chút nữa đây/ Thôi thì ta cứ chấp nhận những niềm vui/ Mà trời đất cho ta chặng cuối của hành trình lang bạt...” (“Trưa Đà Nẵng”)
    
Đó là hành trình không chỉ nhận thấy mà cảm thấy, không chỉ bằng cái thính giác, cái thị giác...mà bằng cái toàn giác: “Ta thở mùa bằng những hơi trầm lắng/ Im lìm nghe quê hương qua thớ thịt làn da...” (Huyền cảm sông Hàn)
Tập thơ “Hai vệt nắng chiều” của Xuân Trường

Đôi khi, tác giả hướng tới hư không và không phải để đối thoại với hư không mà độc thoại với chính mình, với những gì một đi không trở lại, với những gì “không có gì hai lần” theo quan niệm của nữ sĩ Ba Lan W. Szymborska – Giải Nobel văn chương 1996: “Tôi rót chiều đầy một ly không/ rồi nâng lên chạm vào mênh mông nỗi nhớ/ tuổi thơ hiện về, tôi gặp lại tôi xưa...” (“Chiều quê”); “Rót chiều đấy một ly xuân/ Nâng lên tôi lại ngập ngừng mời tôi” (“Chiều xuân uống rượu một mình”); Gió vẫn mặn hoàng hôn quanh chỗ ta ngồi/ Tựa vào chạng vạng hoàng hôn một mình ta nghe biển (“Hoài niệm”).
   
Đây là những câu thơ tuy bảng lảng thi sĩ nhưng cũng máu thịt đến tận cùng, hầu như không bị chi phối, tác động của ngoại cảnh. Chúng như cháy lên, được sinh ra  một cách tự thân, từ một sự hướng nội theo cách hốt nhiên mà như thế, mà nên thế, không cần nói thêm gì nữa.
    
Nhiều lúc, dù Xuân Trường “lưu lạc áo cơm trắng bờ năm tháng” (“Ký ức sông hàn”), “chạm vào nợ cũ vẫn còn áo cơm” (“Tiếng đêm”) mà vẫn yên lòng “tựa bờ chiều ta tìm lại ra xưa” (“Giữa Sài Gòn lưu đọng một Quy Nhơn”) để “tươi xanh” cùng “miền ký ức nôn nao” (“Mưa hạ Tam Kỳ”).
   
Trong “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường có nhiều câu thơ về sự thăng hoa của tình yêu, thân phận của tình yêu thật đáng nhớ và đáng được đánh dấu khuyên vào đó. Có thể đưa ra hàng loạt dẫn chứng: “Em chưa núi mà lòng ta muốn chạm đầu thủ thỉ/ Thời gian chảy hai ta vào tri kỷ/ Khuya khoắt đường về, khuya khoắt mênh mông” (“Đêm Krôngpa”), “Nếu mà lỡ cuộc bể dâu/ Thì xem như mới bắt đầu nghe em/ Ngàn năm môi biển vẫn mềm/ Ngàn năm cát vẫn dịu êm đợi chờ” và “Bồng bềnh em bồng bềnh tôi/ Nước-mây hai đứa một đôi bồng bềnh(“Sáng nay lên đỉnh Kê Gà”), “Em không gió mà lòng ta cứ sóng/ em không hương sao ta mãi bận lòng” và “Chiêm bao ta em vàng đến Sài Gòn” (“Bẽn lẽn dã quỳ”), “Thế gian đông lắm người ta/ Mà sao tôi cứ thật thà một em” (“Bước chân tháng chạp”), “Cắn miếng tinh mơ nghe ngọt lịm phù sa” (“Chợ nổi Cái Răng”)...Bốn câu thơ dưới đây cho trong “Nhớ An Khê” thấy vẻ đẹp buồn đến mong manh của tình yêu hay là cái đẹp của tình yêu luôn mang trong lòng nó sự mong manh ngay từ khởi thủy:

Em thở dài bằng mắt
Tôi vội vã bằng lời
Mà sao trong vời vợi
Đã mầm mống chia phôi...
   
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ:

Ra ngoài tử biệt sinh ly
Văn chương góp một chuyến đi vô cùng...

ĐẶNG HUY GIANG
Nguồn: Blog Văn chương phương nam




Thứ Tư, 26 tháng 12, 2018

NHÀ VĂN TRẦN NHÃ THỤY: VĂN CHƯƠNG KHÔNG CÒN LÀ NGÔI ĐỀN THIÊNG

“Thời nay văn chương không còn là ngôi đền thiêng, tác phẩm văn chương cũng dần rời bỏ những “đại tự sự” tìm về cái tôi nhỏ bé mộng mơ, cái tôi người phàm... Tôi nghĩ văn chương, dù chúng ta gán cho nó những thiên chức như thế nào thì cũng luôn có chức năng giải trí. Tuy nhiên, văn chương thực sự có khả năng xáo trộn tình cảm, đánh thức lương tri...”
Nhà văn Trần Nhã Thụy

Trên thị trường vài năm qua đã có sự xuất hiện của không ít tác phẩm ăn khách của các tác giả trẻ. Nhà văn Trần Nhã Thụy, Trưởng ban Nhà văn trẻ Hội Nhà văn TP.HCM, đã trả lời phỏng vấn Thanh Niên về câu chuyện nhà văn trẻ hiện nay.

* Anh đánh giá ra sao về lực lượng người viết trẻ hiện nay của cả nước và đặc biệt tại TP.HCM?

- Nếu nhìn tổng thể về mặt... quân số thì tôi thấy khá hùng hậu, đến mức một người chưa đến nỗi già, và cũng chịu khó đọc như tôi cũng bắt đầu cảm thấy mình lạc hậu. Nhiều tên tuổi mới toanh mà mình không biết đó là ai, viết cái gì và như thế nào. Bởi bây giờ, cái cách xuất hiện của một cây bút không còn “truyền thống” như trước, tức là: có truyện đăng báo, in chung tập sách rồi in riêng, dần dần tạo tên tuổi. Bây giờ, đùng một phát, các bạn in luôn sách. Đó là điều mà tôi nghĩ là hết sức khác biệt và cũng đáng suy ngẫm.

Theo thống kê của các đơn vị xuất bản, các cây bút trẻ có sách bestseller hầu hết nằm ở TP.HCM như Nguyễn Phong Việt, Anh Khang, Hamlet Trương... Điều này cho thấy sức mua ở TP.HCM là đáng kể, còn nghệ thuật viết cũng như chất lượng của những cuốn sách 100.000 bản này như thế nào thì tôi nghĩ chắc phải cần nhiều cuộc tọa đàm với nhiều chuyên gia mổ xẻ mới có thể thu hoạch được điều gì đó.

* Anh có thấy trào lưu, tác giả nào đáng chú ý trong văn học trẻ hiện nay? Và theo anh vì sao lại đáng chú ý?

- Tôi nghĩ thưởng thức tác phẩm văn chương là theo gu của mỗi người, không nên áp đặt. Với cá nhân tôi, trong vài năm gần đây, tôi thấy có mấy tên tuổi ấn tượng: Ngô Liêm Khoan (thơ), Phan An (văn xuôi), Mai Anh Tuấn (phê bình). Còn về trào lưu sách “ngôn tình tản mạn”, do không phải gu đọc, nên tôi không có ý kiến gì.

* Vừa qua, có cuộc tranh luận về "văn chương thị trường" của các cây bút trẻ ăn khách, xin chia sẻ về quan điểm của anh trong chuyện này.

- Tôi nghĩ, bất kỳ tác giả nào cũng có độc giả của riêng mình và khi sách phát hành thì phải có một thị trường. Là người viết, tôi nghĩ bất kỳ ai cũng sẽ thấy sung sướng khi sách mình bán chạy. Tôi không nghĩ là có những tác giả viết ra những cuốn sách hay mà... bí hiểm hay cao siêu tới mức... không có ai mua về đọc. Do đó, tôi chân thành chia sẻ niềm vui với các nhà văn có sách bán chạy và thú thật tôi cũng... thèm có sách bán chạy như họ chết đi được ấy chứ (cười).

* Một số độc giả cho rằng các tác giả trẻ thường viết chỉ nhằm thỏa mãn cá nhân, tác phẩm thiên về tản mạn tình cảm, kiểu dạng “đọc cũng được, không đọc cũng không chết ai”, chứ chưa mang lại nhiều tác động tích cực cho xã hội. Anh có đồng ý với điều này?

- “Đọc cũng được mà không đọc cũng chẳng sao”, tôi nghĩ là đúng với mọi thời, mọi tác giả và mọi tác phẩm, không phải là bây giờ và chỉ với tác giả trẻ. Chúng ta nên hiểu rằng mỗi thời mỗi khác. Thời nay văn chương không còn là ngôi đền thiêng, tác phẩm văn chương cũng dần rời bỏ những “đại tự sự” tìm về cái tôi nhỏ bé mộng mơ, cái tôi người phàm... Tôi nghĩ văn chương, dù chúng ta gán cho nó những thiên chức như thế nào thì cũng luôn có chức năng giải trí. Tuy nhiên, văn chương thực sự có khả năng xáo trộn tình cảm, đánh thức lương tri...

Nếu như những ai từng là “mọt sách” đều thấy những tác phẩm văn chương thực sự, sống bền lâu trong lòng độc giả, bao giờ cũng có một ngôn ngữ độc đáo, cấu trúc đặc biệt, nhân vật lạ lùng… Văn chương thực sự có ít thôi, còn những cái na ná văn chương, cận văn chương thì nhiều. Và, bất kỳ người viết nào cũng phải vượt qua chính mình để cho ra đời những tác phẩm văn chương độc đáo.

* Vậy theo anh, phải làm gì để có những tác phẩm văn trẻ chất lượng cao hơn nữa?

- Theo tôi, nên tôn trọng và để cho những người trẻ tự do sáng tạo. Mọi định kiến và dạy dỗ, chưa bao giờ là hữu hiệu đối với sáng tạo văn chương.

LUCY NGUYỄN
Nguồn: TNO


Thứ Ba, 25 tháng 12, 2018

NHÀ THƠ BÍCH KHÊ: GIẤU VÀNG TRONG GIÓ THU

Lịch sử thi ca hiện đại ít có thi sỹ nào được như Bích Khê. Chỉ trong vòng 10 năm, dường như để bù lại những gì thưa thớt của ngày tháng cũ, quê hương Quảng Ngãi đã tổ chức hai cuộc hội thảo lớn, tập trung đông đảo các nhà thơ và học giả đương thời tụ hội nhân kỷ niệm 90 năm và 100 năm ngày sinh. Bích Khê và Thơ Bích Khê như được chiếu sáng từ mọi phía của quá khứ và hiện tại bằng sự mẫn cảm tinh tế của các nhà thơ cũng như sự sâu sắc bất ngờ của các nhà lý luận. Vậy mà, khi gấp lại đời thơ đoản mệnh ấy, nhìn vào khuôn mặt trẻ trung, đôi mắt thuần túy và tượng trưng, đôi mắt mà chàng thi sỹ đã dành tới 248 câu thơ trong bài thơ Châu như để tự nói về mình.
Nhà thơ Bích Khê

Đôi mắt đẹp câm trong sắc tượng biến ra châu nguyên vẹn cốt thiên đường, vẫn thấy hình như chàng đang muốn nói điều gì. Một điều đang được chàng giấu kín trong những dòng thơ siêu thực mang hình dáng phương Tây mà lại phả ra cái phong nhã cổ điển của thi ca phương Đông. Đôi mắt mở to. Đẹp và thật buồn như thấp thoáng giữa những dòng Thu mê mải mà đa cảm mang tên gọi Bích Khê. Đành xem lại Tinh Huyết, Tinh Hoa một vài lần nữa để ngẫm ngợi mà vẫn mơ hồ chưa nhận được ra. Nghĩ vậy. Học theo cách làm Thi Thoại của người xưa, tôi theo đợt gió mùa đầu tiên trong năm từ Bắc vào Nam mới khởi sự trước đó hai ngày và dừng lại ở Thu Xà, quê hương Bích Khê để lan tỏa cái se lạnh muôn năm không hiểu nổi của mùa Thu xứ Bắc. Dường như mùa Thu Hà Nội với bộ xiêm y mờ ảo sương mù đi qua biển rộng vừa mới lên bờ vào được đến đây. Cái mảnh đất mà hơn nửa thế kỷ trước Bích Khê đã gọi là làng cũ buồn thu quạnh, thành phố ngưng mạchấy mà giờ tưởng chừng nó vẫn cũ kỹ như xưa sau bao nắng mưa và ly tán của cuộc đời này. Có khi còn cũ hơn ngày trước bởi hôm nay lê thê gió lạnh từ biển thổi vào. Con đường ngắn Thu Xà hai bên những ngôi nhà gạch cũ thấp nhỏ với dăm bảy hiệu tạp hóa theo kiểu bây giờ, xô lệch những khung cửa sổ nhỏ vẫn mở nhìn ra đường từ dạo ấy chưa bao giờ khép lại. Không còn đâu dấu tích của một thương cảng nhộn nhịp trên bến dưới thuyền. Thi sỹ Trần Dần có lần viết: Ôi! những thành phố cố tình vắng vẻ… để khói hè. Với lịch sử của Thu Xà, khi người Việt đầu tiên đến được đây theo đội quân của Hồ Hán Thương vào năm 1402 có thể viết được rằng: Ôi! phố thị cố tình cũ kỹ… để tha hương. Nhà thờ họ Lê Quang ở bên trái gần cuối con đường. Trong một ngõ nhỏ giữa vườn cây vằng lặng. Đó là một kiểu kiến trúc theo lối cổ có hàng hiên ở trước. Chính giữa bàn thờ tổ tiên phía trên có bức hoành phi đỏ viết 4 chữ nho vàng ẩm thủy ân nguyên. Phía sát tường đầu đốc bên phải đặt bàn thờ có ảnh cha mẹ Bích Khê và chị Ngọc Sương thời còn trẻ. Phía đốc nhà bên trái là bàn thờ Bích Khê. Trên tường treo ảnh Bích Khê với đôi mắt nghĩ nhiều nhiều hơn là nhìn quen thuộc. Trên bàn, đằng sau bát hương đặt pho tượng bán thân bằng đá đen tạc hình Bích Khê trẻ trung thanh lịch. Tôi bảo anh em dâng lên bàn thờ một lẵng hoa hồng và thắp ba nén hương trầm lầm dầm khấn không rõ bằng việc chắp nối đôi dòng thơ Tinh Huyết. Khói hương trong nhà đã lên cao. Ngoài vườn, hoa Huỳnh Anh loài thân gỗ mới trồng còn thấp nhỏ đã kịp bung ra những quả chuông vàng rực rỡ như một sự tình cờ giữa chiều chợt mưa chợt nắng. Trong một vài góc nhỏ bụi hoa Oải hương lắc rắc tím với mưa làm như Bích Khê chưa chịu chú ý đến chúng. Phía bên phải khu vườn, người ta lấy đá xếp thành chiếc đàn tỳ bà nằm nghiêng từ phía bầu đàn cao khoảng 5 mét thoai thoải đến phía dưới theo cần đàn mà các phím được xếp bằng những bậc đá đều đặn. Tất cả làm thành hình quả lê bổ đôi. Ngay dưới bầu đàn tỳ bà là thư viện Bích Khê, tạo nên cảm giác như nằm ẩn dưới đất. Trước lối vào thư viện, một cây ngô đồng chắc cũng mới được trồng lá to đến ngọn. Đôi chiếc đã rớm vàng. Chúng tôi nhờ người cháu họ gọi Bích Khê bằng ông đưa đi viếng mộ.

Đường lên mộ nhà thơ vốn là đường lên hội quán ngày xưa. Thuở ấy con đường đã được Bích Khê miêu tả siêu thực lắm. Mấy nàng lai khách vẫn buồn mơ và những chàng trai rõi hững hờ. Ở đấy nàng lai khách đa tình vẫn mong. Anh có khi nào trở lại để nghe khóm lan thơm và đêm về trên mái ngói tiếng nhành nhãn muộn cánh rơi bay. Đường lên hội quán vẫn còn đây với những bụi tre dày chắc để ai đó khỏi tiếc nuối giống như đã không thấy trúc khi về thôn Vĩ Dạ. Hội quán hoang tàn tự bao giờ đã trở thành bãi tha ma mặc cho cây dại mọc bơ phờ bao quanh những nấm mồ xây. Xúm xít đứng dưới mưa. Mưa lã chã rơi không ngớt. Trời tự dưng tối thẫm lại. Mộ Bích Khê nằm giữa đó. Trước mộ dựng một phiến đá rửa màu hồng hình chữ nhật cao độ gần một mét. Trên có mái bằng rộng hơn. Kiểu như mũ bình thiên. Ở giữa phiến đá rửa gắn vào một phiến hoa cương nhỏ hơn viền vàng xung quanh, trên đó có dòng chữ in màu đỏ: Nơi yên nghỉ thi sỹ Bích Khê – Lê Quang Lương 24.3.1916 – 17.1.1946. Phía dưới là 4 câu thơ bằng chữ thường màu xanh. Nguyên văn như sau.

Thân bệnh: Ngô vàng mưa là rụng
Bút thần sống lạnh ánh sao rơi.
Sau nghìn năm nữa trên trần thế
Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi.

Tôi đốt một nắm hương cháy đỏ trong mưa cắm lên trước mộ. Vừa đi khỏi độ chừng 300 bước, thì trời bỗng nhiên lại rạng. Lộ ra một khoảng xanh mờ trên những tán lá cây còn chưa hết ngờ ngàng để mặc cho những giọt nước của dĩ vãng còn lại rơi xuống đất. Nghe như thi sỹ Bích Khê vừa mới gảy khúc tỳ bà mùa Thu từ thế kỷ trước làm nên tiếng thơ mới lạ trong phong trào Thơ Mới 1930-1945. Tiếng đàn khổ đau trong mê sảng và trần trụi kiếp người, phổ trong bản nhạc của tượng trưng và siêu thực bằng tinh huyết của thi sỹ tài danh vang lên nghẹn ngào mà thanh thoát tiếng vàng của thượng đế và trần thế không lẫn với bất kỳ ai trên thi đàn Việt Nam hiện đại.

Người đời đã dành nhiều danh hiệu cao quý tưởng như không thể gì nói hơn được nữa. Nhất là những lời nhận xét ấy lại của những nhà thơ tài danh cùng thời với Bích Khê. Hàn Mặc Tử gọi Bích Khê là thi sỹ thần linh. Chế Lan Viên bảo Bích Khê là một đỉnh núi lạ. Mặc dù thi sỹ họ Chế đánh giá Bích Khê cao hơn Nguyễn Nhược Pháp vì Pháp kể một câu chuyện có thể có, còn Khê tạo ra một điều khó có thể có. Khi so sánh với Hàn Mặc Tử thì bảo. Khê làm thơ mà không bị thơ làm như Hàn Mặc Tử. Câu này Chế Lan Viên có ý chê nhiều hơn khen. Tôi chờ đợi ở nhà thơ lớn nhất thế kỷ 20 không phải sự tỉnh táo rạch ròi của một nhà lý luận mà nhẽ ra phải mê đi nhiều hơn nữa của một thi sỹ khi viết về người bạn cùng thời đại với mình. Mặc dù… mặc dù… Chế Lan Viên viết giới thiệu Hàn Mặc Tử hồi cuối năm 1987 và viết về Bích Khê vào tháng 2 năm 1988 đã quá ư thận trọng khi đề cập đến hơi hướng thời cuộc của hai người bạn thơ, khiến ta không khỏi chạnh lòng. Họ Chế viết: Một bài thơ của Khê lấy tên Duy Tân. Có dính dáng gì không đến ông vua yêu nước trùng tên. Đọc lại Duy Tân thấy hai câu kết Bích Khê viết: Thơ lõa thể! Giai nhân tuần trăng mật, Nữ thần ơi! ta nô lệ bên người thì thấy vua Duy Tân không gợi lại điều gì ở đây. Có lẽ Chế Lan Viên viết điều này cũng là việc cực chẳng đã và muốn làm tốt hơn cho bạn của mình. Bởi vì, những năm 1980, có người nhân việc dịch ra tiếng Việt một số nội dung tác phẩm của André Gide mà Bích Khê còn chưa xuất bản, đã mang cái tên ít người Việt Nam biết đến ở tận bên Ngalatư phiên âm gọi là Tờrốtkít gán vào cho thi sỹ Bích Khê. Nếu quả như vậy mà người ta đọc Tóm tắt những bài giảng về lịch sử triết học của F.Heghenra tiếng Nga cho dễ hiểu trong Bút kí triết học thì Lê Nin cũng có thể bị quy là Hêghengit cũng nên. Cả thế kỷ 20, người Việt Nam thao thức đi tìm triết lý sống cho mình và phải trả giá không biết bao nhiêu để đến được ngày nay?

Từ thế kỷ trước đến thế kỷ này, người đời vẫn mải miết đi tìm những bí mật chàng thi sỹ bé nhỏ ở đất Thu Xà đã cất giấu vẻn vẹn trong 2 tập thơ mà trên con đường ấy người ta vẫn còn có điểm chưa phải đã gặp được nhau.

Có ý kiến có thể vì quá yêu Bích Khê và mong muốn chỉ ra rõ ràng những cung bậc phát triển đã đặt vị trí của Thơ Bích Khê ở giai đoạn thứ hai của phong trào Thơ Mới 1930-1945 hoặc Bích Khê cũng như Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử đã đi xa hơn Thơ Mới. Hoặc trong Thơ Mới chưa có Bích Khê. Dù theo ý nghĩa gì, nói ra điều này có cần thiết hay chăng?

Từ gần một thế kỷ nay, hầu như tất cả các nguồn dư luận đều khẳng định phong trào Thơ Mới là sản phẩm của cuộc gặp gỡ giữa văn hóa Phương Đông và Phương Tây, trên một nền tảng xã hội với sự hình thành đông đảo tầng lớp thị dân khắp trong Nam ngoài Bắc là bạn đọc chia sẻ hào hứng và cổ vũ nhiệt thành cho Thơ Mới. Các nhà thơ Bàn thành tứ hữu – Trường thơ Loạn nằm trong sự gặp gỡ Đông Tây đó. Họ sinh thành trong khuôn viên Thơ Mới. Trường thơ Loạn thực chất là trường phái siêu thực bắt nguồn từ chủ nghĩa tượng trưng mà cốt lõi của nó đặt phi lý tính lên trên lý tính, trạng thái tâm hồn trong tiềm thức,  không phân biệt ranh giới giữa thực và mộng; Đồng thời tiếp thu tinh hoa của thi ca Phương Đông. Đặc biệt là thơ Đường. Hoài Thanh khi làm quyển Thi Nhân Việt Nam 1941 thật có lí khi ông xếp liền một dải Hàn Mặc Tử - Chế Lan Viên - Bích Khê, mặc dù Bích Khê không phải là một trong Bàn thành tứ hữu. Với Quách Tấn và Yến Lan hai người còn lại, Hoài Thanh xếp họ ở khu vực khác. Vì vậy, khi Bích Khê xuất hiện bằng một Tinh Huyết đã không phải là người đến sau. Mặc dù có ảnh hưởng và được Hàn Mặc Tử khích lệ. Quách Tấn hồi những năm 1960-1967 khi viết cuốn Đời Bích Khê(Xuất bản ở Sài Gòn năm 1971) đã để tâm so sánh ba thi sỹ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê là những người cùng hàng. Bích Khê đã góp vào một khuôn mặt tiêu biểu cho Trường thơ Loạn khi Quách Tấn đã phân tích quá viên mãn ý thơ Sọ người của ba tác giả. Hơn nữa, nhìn vào thời điểm xuất hiện các tập thơ. 1935 Mấy vần thơ - Thế Lữ. 1936 Gái quê - Hàn Mặc Tử. 1937 Điêu tàn - Chế Lan Viên. 1938  Thơ Thơ - Xuân Diệu. 1939Tinh Huyết - Bích Khê. Tiếng Thu - Lưu Trọng Lư. 1940 Lỡ bước sang ngang - Nguyễn Bính. Lửa thiêng - Huy Cận. 1941 Mùa cổ điển - Quách Tấn… thì Bích Khê nằm ở giai đoạn 2 chăng? Phong trào Thơ Mới chỉ trong khoảng 10 năm đã sinh thành và lớn lên vượt bậc, không hề đứt đoạn, đã như một cuộc cách mạng lớn nhất của thi ca thế kỷ 20 với một chủ thể trữ tình khao khát tự do cá nhân, nỗi cô đơn và khắc khoải của tình yêu đôi lứa cùng sự hoài niệm đau thương về những bến bờ xưa của kiếp người với thiên nhiên kỳ ảo mà nét chủ đạo là mùa thu tuyệt bích buồn. Bích Khê xứng đáng như là một gương mặt tiêu biểu của phong trào ấy, một trong những người tiên phong của cuộc cách mạng thi ca lớn nhất thời hiện đại. Vì vậy Bích Khê không thể đứng ngoài cuộc cách mạng ấy. Nhóm Dạ đài vào hồi 1945-1946 ảnh hưởng Trường thơ Loạn có lẽ ở bình diện khuynh hướng sáng tác hơn là giai đoạn phát triển thi ca của Bích Khê.

Về nhận định cho rằng Tinh Hoa từ bỏ thể nghiệm Âu hóa để trở về khai thác các đặc tính thi ca Đông phương; điểm này có hơi khác với Hàn Mặc Tử khi viết lời giới thiệu Tinh Huyết-1939. Bích Khê hoàn toàn là Baudelaire – tưởng đã đi đến tận cùng của vườn hoa nghệ thuật, nhưng chàng còn mở rộng biên giới để thấy chàng là một thi sỹ Đông phương, lời thơ của chàng nhuốm đầy màu sắc của các thi gia đời Đường… Như thế sự kết hợp Đông Tây đã rộn ràng trong Tinh Huyết. Tập di cảo mang tên Tinh Hoa được gia đình Bích Khê trao cho Quách Tấn từ hồi 1960-1967 và chỉ được giới thiệu một số bài. Chưa bao giờ nó được in ra. Theo Chế Lan Viên, bản thảo Tinh Hoa mà chị Ngọc Sương giao cho Sở văn hóa Nghĩa Bình hồi những năm 1980 thấy còn thiếu đôi đoạn, đôi câu. Mãi đến năm 1997, tức là sau 51 năm Bích Khê mất mới được in lần đầu. Nhìn vào Tinh Hoa in đầy đủ năm 2016 thấy rõ ràng số lượng bài thơ làm theo thể Đường luật thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt và cả 5 bài lục bát truyền thống: Ngón giai nhân. Hai tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn. Mỹ tửu ca. Huế đa tình. Băng tuyết. Nhưng tiếc thay, các bài thơ làm theo thể thơ cũ nhìn chung không để lại ấn tượng gì đặc biệt trong cách tân và đổi mới thi ca cũng như không có bài thơ nào nằm trong thơ hay của tập. Cái hồn cốt Bích Khê trong Tinh Huyết đã phai nhạt khá nhiều. Năm 1967, Quách Tấn cho là Tinh Hoa rất có giá trị, giá trị cao hơn Tinh Huyết một bậc. Điều khẳng định ấy của Quách Tấn là một sự tâm giao. Bởi Mùa cổ điển của ông gồm 59 bài thơ theo thể thơ Đường luật. Như một tuyên ngôn. Quách Tấn lẳng lặng dành tình yêu trong sáng của mình cho những giá trị Á Đông. Mặc cho sự kịch liệt của tranh luận Thơ Mới - Thơ Cũ thời đó. Có lẽ Quách Tấn đã tìm thấy sự đồng điệu của mình với Bích Khê khi Tinh Hoa có nhiều bài theo thể Thơ Đường.

Bích Khê là bích khê nhất phải ở trong Tinh Huyết. Tập thơ được ông cho xuất bản năm ông còn sống. Tinh Huyết có nhiều bài thơ hay. Nhạc. Mộng Cầm Ca. Tỳ bà. Tân hôn. Thi vị. Hiện hình. Nghê thường. Tranh lõa thể. Bàn chân. Nàng bước tới và có thể Châu - ở nhiều đoạn trong phần 3. Tinh Hoa có khoảng 5 bài. Duy Tân. Xuân tượng trưng. Tiếng đàn mưa. Làng em. Nấm mộ. Trong đó 2 bài được Hoài Thanh chọn vào Thi Nhân Việt Namthể theo yêu cầu của Bích Khê trong 2 bức thư ngày 7/1/1941 và 25/10/1941 gửi Hoài Thanh. Nếu 2 bài thơTiếng đàn Mưa và Làng em là minh chứng cho thành tựu trở về thi ca phương Đông thì thật khiêm tốn biết chừng nào. Đáng lưu ý là khi bắt đầu khời nghiệp thi ca Bích Khê đã làm thơ Đường luật hàng trăm bài. Tinh Huyết rõ ràng là tập thơ xác định vị trí Bích Khê trên thi đàn Việt Nam trong những năm 30-40 của thế kỷ trước. Không đợi đến khi Tinh Hoa ra đời. Theo như Quách Tấn, đã có người chê thơ cũ của Khê không hồn, và khen thơ mới của Khê chung chiếu cùng Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên thật cân xứng. Ngoại trừ, chàng Bích Khê Đăng lâm trong Tinh Hoa để thêm một lần xuất hiện cái nắng nhấp nhô siêu thực mà cổ điển trên bầu trời ven biển miền Trung Việt Nam. Mục tử năm ba tiều thổi điệu. Nằng vàng cao thấp, núi rung rinh.
           
Chế Lan Viên đã quá tỉnh táo hay chăng khi không nương nhẹ chỉ ra thẳng thừng những gì là của Tây phương. Quả măng cụt của Khê, ta biết rằng đấy là quả lựu của Valéry. Valéry hóa thân. Con quạ trên mộ Khê là con quạ của Edgar Poe, của thơ Mallarme bay đến. Da thịt rồi xác thịt, rồi xác chết trong anh, nguyên là Baudelaire. Điều này không có gì là mới khi chính Bích Khê đã nói từ 1939. Baudelaire! Người là vua thi sỹ. Sự giao thoa của các nền văn hóa khó tránh khỏi việc để lại những vết khấc. Cũng như việc chuyển sang dùng lại nhiều thể thơ cũ Đường luật và lục bát chưa đủ chứng minh cho tiềm năng sáng tạo của việc tìm về văn hóa Á Đông. Điều kỳ lạ trong 3 nhà thơ nổi tiếng nhất của Trường thơ Loạn có những bài thơ hay nhất, lại không phải, hoàn toàn không phải do siêu thực và tượng trưng thuần túy đã được điển hình. Hàn Mặc Tử với Mùa xuân chínvà Đây thôn Vĩ Dạ. Chế Lan Viên với Trên đường về, Xuân, Chiến tượng… để lại những câu tuyệt bút cho đời. Ở đó, người ta rung lên không phải vì đâu là Tây phương, đâu là Đông phương. Đó là những câu thơ tươi sáng như lọc ra từ ánh sáng trời, từ cây cỏ tự nhiên mang màu sắc thời gian. Bích Khê cũng thế. Chàng tự nhận là Phượng Sồ không bằng Phượng Long Hàn Mặc Tử. Những câu thơ tuyệt bích mà dung dị lạ thường. Nó là của Bích Khê.Bài hát đầu tiên của chàng về Mộng cầm ca là hát về hương lúa. Siêu thực mà bình dị như thấy được bên bờ của khúc tâm tình.Đây bát ngát và thơm như sữa lúa. Nhựa đương lên. Sức mạnh của lòng thương.
           
Cảnh đẹp đêm thu ta thường gặp trăng trên mọi nẻo đường gió bụi mà lại là trăng của tối tân hôn. Ô lạ! làm sao thương nhớ quá. Đêm nay trăng ngủ ở bên đường. Để từ đó cái sự khóc trong tối tân hôn của người thục nữ thật trong trắng, đẹp lạ lùng chẳng biết thực hay mơ. Và đêm nay khóc cho nên mới, lộ một sông trăng chảy lệ vàng. Trăng trên nẻo đường đời đến đây đã trở thành trăng siêu thực mất rồi mà ta chẳng có hay? Vẻ đẹp của giai nhân hiện dưới bóng hằng nga; vẻ đẹp sang trọng mang màu sắc cung đình mà tinh tế, mà đầy huyễn hoặc.Áo xiêm ăn đứt màu trăng sáng. Gió nép mình nghe tiếng chạm vàng. Vẻ đẹp của Tinh Huyết được Bích Khê mê hoặc thường trong sự giao hòa giữa ảo và thực, giữa hiện sinh và thần linh. Bích Khê miêu tả vẻ đẹp khi người tình bước tới tất cả như vô hình dồn lại ngây ngất vị phong trần. Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc. Cả thời gian dồn lại ở bàn tay. Ai giam lỏng một vì sao giữa mắt. Quả nhân duyên mũi mẫm vị phong trần. Vẻ đẹp của người thiếu nữ với Bích Khê là sự tinh khiết vô cùng được ghép lại bằng thơ và nhạc, bằng trăng và gió của thể giới tự nhiên. Gió đi chới với trong khung trắng. Lộ nửa vần thơ nửa điệu ca. Tôi ráp lại xem ồ sự lạ. Một người thiếu nữ hiện trong trăng. Đôi khi vẻ đẹp của con người được Bích Khê miêu tả chỉ bằng giai điệu của nhạc, dùng cái siêu hình để hiện ra cái hữu hình. Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng thu. Bỗng đôi mắt ngọc hiện xanh mờ. Và châu và báu và sinh khí. Nức nở tan thành vạn giọt thơ.
           
Trong phong trào Thơ Mới 30-45, chưa ai dám công khai thành lời như Bích Khê tôn vinh vẻ đẹp của cái dâm, cái cuồng và đằng sau những từ chát chúa ấy, chàng thi sỹ ngợi ca vẻ đẹp của cuộc sống con người. Vấn đề ở đây không phải là ở một, hai câu thơ có sạn mà là ở quan điểm thẩm mỹ hướng tới. Văn chương bình dân cũng như bác học từ xưa đến nay chưa bao giờ ngoảnh mặt với tình dục. Bởi vì đó là mặt cơ bản của đời sống và sinh tồn loài người. Một nền văn học mà chối bỏ tình dục thì đâu còn chủ nghĩa nhân văn. Nó không phải hạ thấp hoặc xỉ nhục con người mà là ngợi ca con người tự do với đầy đủ ý nghĩa của từ đó. Trong vấn đề này, dường như Hàn Mặc Tử nhân tình thế thái và ít khắt khe hơn Chế Lan Viên. Hàn Mặc Tử viết. Ở Sọ người, cũng như ở Tranh lõa thể sự trần truồng dâm đãng đã nhường lại cho ý vị nên thơ của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết. Quả nhiên là một sự thanh tao đến ngọt lịm cả người, cả thơ. Tôi không hiểu có mối liên hệ gì về nối ám ảnh của những ngọn tháp gầy mòn vì mong đợi suốt dải đất miền Trung mà ở bên trong thờ phụng vẻ đẹp trần tục của đàn ông, đàn bà đã đổ bóng siêu hình xuống thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và đặc biệt của Bích Khê để ba chàng thi sỹ đã hình thành một trường phái thơ về vẻ đẹp tình dục của con người. Đó là cái hằng sống của con người. Và hình như nó chưa một lần lặp lại trong thi ca thế kỷ 20.
           
Thi sỹ Trần Dần trong Vở bụi viết hai năm liền hồi 1983-1984 chỉ được bốn trang theo kiểu nhật kí thơ ở câu thứ năm có viết. Ai đem giấu vàng trong gió thu. Duy nhất chỉ có một câu hỏi như thốt lên rồi bỗng dừng ngay lại. Không trả lời. Không giải thích. Mấy năm nay tôi lặn lội trong thi sử và thế giới thi ca để mong tìm câu trả lời mà chưa bao giờ thấy trọn vẹn. Nhất là mỗi khi mùa thu từ xa lắm chẳng biết ở đâu mà sáng ra đã thấy về ngay trước hiên nhà. Có lẽ trên thế gian này chỉ có một loài duy nhất làm được điều đó? Vâng – Thi sỹ là người giấu vàng trong gió thu. Từ ngàn đời nay họ đã thay mặt loài người, mang tinh huyết của trần thế, của thượng đế, một thứ vàng quý nhất, tinh túy nhất của cuộc sống tinh thần phổ vào cây đàn muôn điệu thi ca giấu trong gió thu để thời gian không bao giờ quên lãng sự trong sáng đến vô cùng của tình yêu giữa con người với con người, vẻ đẹp vĩnh cửu của tâm hồn con người luôn hướng tới chân thiện mỹ dù có phải trải qua bao nhiêu thử thách, đau đớn, cô đơn, mất mát, buồn vui không hẹn trước để như lời hẹn ước muôn năm bỗng chốc hiện về sắc vàng không phải ảm đạm mà sáng bừng hi vọng và thăm thẳm tình đời mỗi khi gió thu thổi vàng sông núi.
           
Nhìn vào đôi mắt Bích Khê, phải chăng điều chàng muốn nói với hậu thế không phải là Lời tuyệt mệnh mà một điều gì thiêng liêng gửi lại cho đời? Dường như chàng đã hỏi câu hỏi mà Trần Dần sau gần thế kỷ mới hỏi lại và Bích Khê đã tự mình trả lời cho khách đa tình mùa thu vô hạn thường mỗi khi trở về dưới biếc chập chờn hương rằng chàng đã gửi vàng trong gió thu qua tiếng tiêu vàng?Mùa thu ám ảnh nhà thi sỹ. Muốn thỏi tiêu vàng giữa khói sương.
           
Sắc vàng là bản vị của thơ Bích Khê. Tinh Huyết có 33 bài có tới 17 bài ngân lên những cung bậc của sắc vàng. Tinh Hoa ít nhất cũng có 8 bài nói về điều đó. Đó là sắc của hồn thu đi lạc. Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng. Của hồn thu đi lạc ở trong mơ.
           
Đó là một trong năm lần cùng Hồ Xuân Hương ngực để trần một đêm lên cung trăng vấn nguyệt. Trăng mùa thu sáng như ngọc xây vàng trên cành lá. Ô trời hôm nay sao mà xanh. Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành.
           
Đó là vàng lay một trời thanh khí mười phương đa tình, ngây ngất trong hương thơm của nhạc, của màu.Hồn bay! hồn bay! hồn bay!Ngửa nghiêng tắm mát vàng lay, nhạc hường.
           
Đó là muôn vẻ màu vàng trải khắp các dòng thơ Bích Khê. Sắc vàng giấu trong gió thu bây giờ hiện ra như tiếng vàng của thượng đế. Đẹp mải muốt trong sự già nua trần trụi của thế thái nhân tình.Tiếng vàng tiếng ngọc xào xạc chen ra. Đêm rót lệ, trăng ôm niềm tóc bạc.

Bài thơ Thi Vị là tuyên ngôn của Bích Khê về bản vị vàng giấu trong gió thu hiện lên bởi lá vàng, trăng vàng, hoa vàng, sao vàng, đêm vàng… Tất cả đều rời xa vì tất cả đều rơi theo giọng đàn rung, nghẹn, rụng rồi câm tiếng và bẻ phím cho sự mất mát, chia ly không bao giờ gặp lại của một cuộc tình. Nhưng đặc sắc hơn cả và là sự trả lời đầy đủ hơn cả về việc thi sỹ giấu vàng trong gió thu để tình yêu con người bất tử trong màu vàng muôn thuở cô đơn của mùa thu không giới hạn phải kể đến Tỳ bà. Bài thơ này có lẽ xứng đáng hơn cả để Hoài Thanh lựa chọn vào Thi Nhân Việt Nam. Nhưng chắc là Hoài Thanh đặt lên trên hết mong muốn của Bích Khê muốn giới thiệu 2 bài không nằm trong tập Tinh Huyết đã in. Tỳ bà được người ta nói đến nhiều ở nhạc điệu kỳ lạ của nó trong 4 khổ thơ 16 dòng đều là thanh bằng. Nó đã được phổ nhạc và đến thế kỷ 21 người ta vẫn thường hay hát.Tỳ bà bày tỏ tình yêu của Bích Khê với người tình xưa đã quên lời thề để chàng phải đi tìm lại trong du dương tiếng nhạc ở lầu cung thương, ở chốn Đào nguyên trong mộng tưởng và trong lòng người qua khúc Tỳ bà mùa thu được dạo lên bởi nhịp tương tư, để nói với nàng rằng thi sỹ chẳng bao giờ thôi yêu nàng. Màu vàng của mùa thu ẩn trong hao gầy của những bông hoa trên đoạn đường cả trong mơ và trong thực nơi người xưa không trở lại. Chàng thi sỹ cứ đi tìm, đi mãi qua cả 4 mùa, từ mùa xuân khi buồn còn lưu trên cây đào hơi xuân rồi buồn lang thang qua cây tùng đến chốn ở của đông quân. Chàng đi tiếp nhưng chẳng bao giờ gặp lại người tình xưa nữa. Chỉ gặp mùa thu buồn mênh mông giữa vàng rơi, vàng rơi không bao giờ dừng lại chỉ vương một chút buồn trên cây ngô đồng thuần túy và tượng trưng của thi ca phương Đông.

Ô! hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
             
Hoài Thanh gọi đây là những câu thơ hay bậc nhất của Việt Nam. Dường như ta chỉ gặp cái bơ vơ ấy của người thi sỹ có một lần trong cô đơn mùa thu như vậy và chàng đã đem thứ vàng quý nhất ấy của đời mình giấu trong gió thu để câu thơ nói về nó trở nên bất tử. Một lần thôi. Không bao giờ tìm lại nữa. Lặp lại nữa. Nhiều cái thuộc về Bích Khê mai này có thể tàn tạ như những giọt nước cuối cùng của dĩ vãng đã tự nguyện rơi vào buổi chiều hôm ấy ở Thu Xà ngay bên mộ Bích Khê. Nhưng thứ vàng giấu trong gió thu ở hai câu thơ này sẽ không bao giờ mất.
           
Rời Thu Xà tôi bay ngược ngọn gió mùa thu mong manh để trở về. Trên chuyến bay ấy, giữa đông đảo những người khách trẻ tuổi rối rít nào những ba lô, máy tính bảng và điện thoại thông minh, tôi như kẻ già nua cô đơn và lạc lòng vì có ai trong số họ đi tìm vàng không có lượng gửi trong gió thu? Có phải thi sỹ bây giờ đang tự mình rút lui vào ngõ nhỏ, phố nhỏ như một Thu Xà giữa các đô thị khang trang. Nhường mặt tiền phố lớn cho doanh nhân sáng láng và thành đạt. Họ có rất nhiều vàng. Không phải trừu tượng mà có cân. Có lượng. Nhưng gió thu không có chỗ để giấu loại vàng ấy. Thi ca là vàng gửi được trong gió thu, giấu những điều thầm kín nhất của loài người để những giá trị nhân văn bất tử.

KHUẤT BÌNH NGUYÊN
Nguồn Văn nghệ số 47/2018


ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP, VỊ TƯỚNG KIỆT XUẤT, NHÀ CHÍNH TRỊ, NHÀ VĂN HÓA TẦM CỠ

Sáng 21-12-2018, nhân kỷ niệm 74 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam, và 5 năm ngày mất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tại Nhà khách Bộ Quốc phòng (266 Thụy Khê, Tây Hồ, Hà Nội), Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc - Hội khoa học Lịch sử Việt Nam - Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tạp chí Văn Hiến Việt Nam, tổ chức Hội thảo quốc gia “ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP VỚI VĂN HÓA DÂN TỘC”.  Đây là sự khởi đầu của mọi sự khởi đầu. Hội thảo thu hút nhiều vị nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiều tướng lĩnh quân đội, công an, các nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ… trong cả nước.

Trong số hơn 60 bản tham luận được gửi đến, Ban tổ chức, đã chọn lựa 50 bản in vào tập Kỷ yếu Hội thảo khoa học. Từ Thành phố Hồ Chí Minh, Đại tá - nhà văn Nguyễn Minh Ngọc ra tham dự với bản tham luận “Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị tướng kiệt xuất, nhà chính trị, nhà văn hóa tầm cỡ”. Xin trân trọng giới thiệu.
Đại tá - nhà văn Nguyễn Minh Ngọc tại hội thảo

ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP, VỊ TƯỚNG KIỆT XUẤT, 
NHÀ CHÍNH TRỊ, NHÀ VĂN HÓA TẦM CỠ

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013), vị tướng lừng danh trong lịch sử, là người văn võ song toàn, cả công lẫn danh đều quán thế: trên hết cả một đời (despasser lesiècle). Ông còn là nhà chính trị, nhà văn hóa tầm cỡ với tầm nhìn sâu rộng, trọn đời vì nước, vì dân.

Sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho thanh bần tại làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình, được người cha truyền dạy chữ, Võ Nguyên Giáp nổi tiếng thông minh và hiếu học. Từ nhỏ, ông đã phải lao động để kiếm sống. Năm 13 tuổi, ông được vào trường Quốc học (Huế). Đến năm 1925, Võ Nguyên Giáp bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Ở tuổi 18, ông tham gia cải tổ Tân Việt cách mạng đảng thành Đông Dương cộng sản liên đoàn. Sau khi bị thực dân Pháp bắt giam (1930), rồi được thả, Võ Nguyên Giáp ra Hà Nội tiếp tục con đường học vấn. Năm 1937, ông đỗ Cử nhân Luật và kinh tế chính trị học. Cùng với việc hoạt động năng nổ, tích cực trên mặt trận văn hóa, như làm báo, viết bài cho nhiều tờ báo công khai lúc bấy giờ, như: Tin tức, Dân chúng (Le Peuple),  Lao Động (Le Travail), Tiếng nói của chúng ta (Notre voix)… Võ Nguyên Giáp còn là thầy giáo dạy Sử - Địa ở trường Tư thục Thăng Long. Bao giờ cũng vậy, sử học luôn là cái bếp than hồng “giữ lửa” ấp ủ và nhen nhóm tâm hồn của một dân tộc!

Từ năm 1936-1939, phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương lên cao, Võ Nguyên Giáp là một trong những sáng lập viên của Mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Và ông đã có tác phẩm lý luận đầu tiên “Vấn đề dân cày” viết chung với ông Trường Chinh, dưới bút danh là Qua Ninh - Vân Đình. Tác phẩm nêu bật quan điểm: vấn đề then chốt ở Đông Dương là trao ruộng đất cho dân cày! Đó là nội dung cốt lõi của các mạng dân tộc dân chủ do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo.

Năm 1939, Võ Nguyên Giáp cùng Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc tìm gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tại đây, năm sau, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 5-1941, ông trở về Cao Bằng cùng mấy cán bộ cao cấp khác, dưới sự chỉ đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh, họ bắt tay xây dựng cơ sở cách mạng và lập ra Mặt trận Việt Minh. Để phát triển lực lượng vũ trang cách mạng, thời gian này, Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng mở các lớp đào tạo quân sự ngắn ngày do các ông Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp trực tiếp huấn luyện. Tài liệu huấn luyện, bên cạnh tác phẩm “Người chính trị viên” của Phạm Văn Đồng, là cuốn “Công tác chính trị trong LLVT nhân dân cách mạng” của Võ Nguyên Giáp.

Từ việc được phân công phụ trách ban “Xung phong Nam Tiến”, thực hiện Nghị quyết Trung ương 8, tháng 12-1944, tại căn cứ địa Cao Bằng, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, và giao cho Võ Nguyên Giáp thay mặt Đoàn thể (Trung ương Đảng) trực tiếp tổ chức thành lập Đội. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay. Chỉ thị nêu rõ nguyên tắc hoạt động của Đội là phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được, tổ chức của Đội phải lấy chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo. Là người trực tiếp lãnh đạo và chỉ huy, Võ Nguyên Giáp là vị Tư lệnh kiêm Chính ủy đầu tiên của Quân đội ta. Cuối tháng 3-1945, ông đưa Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân xuống phía Nam hội quân với Đội Cứu quốc quân của ông Chu Văn Tấn tại vùng chợ Chu, Thái Nguyên, thống nhất tổ chức thành Việt Nam Giải phóng quân.

Tháng 8-1945, Võ Nguyên Giáp là Ủy viên Ủy ban Quân sự cách mạng, Tổng chỉ huy các đội Việt Nam Giải phóng quân. Trong năm này, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 2, ông được cử vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương (Bộ Chính trị). Ông tham gia Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, làm Bộ trưởng Nội vụ trong Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Quân sự ủy viên hội trong Chính phủ liên hiệp, Phó trưởng đoàn Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đàm phán với Pháp tại Hội nghị trù bị Đà Lạt năm 1946. Cùng thời gian này, Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung ương Quân ủy (nay là Quân ủy Trung ương) và chỉ định đồng chí Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng là Bí thư. Đây là cơ quan lãnh đạo, giúp Trung ương Đảng nắm chắc hoạt động của quân đội, xây dựng bản chất cách mạng của quân đội, bảo đảm cho quân đội tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, trung thành với Tổ quốc và nhân dân.

Càng về cuối năm 1946, tình hình càng trở nên phức tạp như “ngàn cân treo sợi tóc”. Thời gian hòa hoãn ngắn ngủi sau Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp đã hết. Sau khi chiếm được Nam Bộ, Nam Trung Bộ, thực dân Pháp mở rộng gây hấn ra phía Bắc. Chúng ngang nhiên đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn. Ngày 18-12-1946, Bộ chỉ huy quân Pháp gửi tối hậu thư cho Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, chúng láo xược đòi tước khí giới của tự vệ và LLVT ta.

Trước đó, ngày 30-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 230/SL “Thống nhất Quân sự ủy viên hội và Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy”; bổ nhiệm ông Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam. Thực hiện mệnh lệnh chiến đấu của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp, 20 giờ đêm 19-12-1946, quân và dân ta đồng loạt nổ súng đánh quân xâm lược Pháp ở Hà Nội và các thành phố lớn. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.

Ngày 20-1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 110/SL phong quân hàm Đại tướng cho Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Võ Nguyên Giáp; cùng các Sắc lệnh số 111/SL, 112/SL và 115/SL phong hàm 9 Thiếu tướng, 1 Trung tướng. Khi một nhà báo nước ngoài phỏng vấn lý do phong hàm tướng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời đại ý, rằng đánh thắng Đại tướng, phong Đại tướng; đánh thắng Trung tướng, phong Trung tướng. Và thực tế, trong 9 năm xâm lược Việt Nam (1945-1954) đã có 7 viên tướng Pháp sừng sỏ kế tiếp nhau chuốc lấy thất bại trước quân dân ta và vị tướng trẻ của Quân đội nhân dân Việt Nam khi ấy mới 43 tuổi.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bí thư Tổng Quân ủy (sau là Quân ủy Trung ương) từ năm 1946 đến năm 1977; Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng từ khóa II đến khóa VI; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa II, III và IV; Phó Thủ tướng Chính phủ từ 1978-1982.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cùng với các tác phẩm lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh, Nhà xuất bản Vệ quốc quân (tiền thân của Nxb QĐND ngày nay) đã cho ra mắt một số cuốn sách có giá trị ” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Cuộc chiến tranh giải phóng của chúng ta - chiến lược và chiến thuật”, “Phát động chiến tranh du kích”, “Tiến mạnh sang giai đoạn mới”

 Là một học trò xuất sắc và là cộng sự gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một nhà chiến lược, một chỉ huy quân sự lỗi lạc. Những năm đất nước có chiến tranh, cùng với việc tham gia lãnh đạo, chỉ đạo chung, sát cánh cùng với Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đại tướng trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch lớn như: Chiến dịch Biên Giới (1950), Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)… với tài nghệ siêu phàm về chỉ đạo tác chiến chiến lược, cũng như tác chiến chiến dịch.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cùng Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng chỉ đạo các chiến dịch lớn ở miền Nam, trong đó có chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử; chỉ đạo cuộc chiến tranh nhân dân chống lại cuộc leo thang phá hoại của không quân và hải quân Mỹ ra miền Bắc Việt Nam. Đặc biệt, ông là người trực tiếp chỉ đạo quân và dân Hà Nội, với nòng cốt là bộ đội Phòng không - Không quân, đập tạn cuộc tập kích cực kỳ tàn bạo 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972, làm nên trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” lừng lẫy, hạ gục uy thế của “Siêu pháo đài bay” B52, buộc Mỹ phải “xuống thang” chiến tranh và ký kết Hiệp định Paris. Suốt 21 năm bền gan chiến đấu, quân và dân ta đã đánh bại 4 chiến lược chiến tranh của 5 đời Tổng thống Mỹ, cùng nhiều viên tướng tên tuổi khác của Hoa Kỳ, cuối cùng phải ngậm ngùi cuốn cờ trở về chính quốc.

Trong bộ phim truyện “CAO HƠN BẦU TRỜI” 50 tập đang được phát song trên các kênh truyền hình (VTV9, SCTV6, Quốc phòng Việt Nam, VTV.cab “Phim Việt”, tôi đã dựng lại hình tượng sống động của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Là người luôn hiểu rõ sự thành bại của chiến tranh phụ thuộc vào tâm trạng của những người đang trực tiếp cầm súng trên chiến trường, ông không chỉ là vị Tổng Tư lệnh, người chỉ huy tối cao, luôn quan tâm đến cấp dưới. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng 4 lần viết thư cho bộ đội trước khi bắt tay vào nhiệm vụ mới. Nhà văn Nguyễn Đình Thi từng nhận xét: “Một vị Tổng Tư lệnh viết thư tâm tình với cán bộ và chiến sĩ như vậy là nét đẹp nói lên bản chất cách mạng của bộ đội Cụ Hồ và cũng là điều hiếm thấy trong chiến tranh các nước”.[1]

Những lời động viên của ông đối với các chiến sĩ Sư đoàn phòng không “Cận vệ Thủ đô” trong 12 ngày đêm ở Hà Nội, dễ gì quên được: “Cả nước đang hướng về Hà Nội. Toàn thế giới đang hướng về Hà Nội. Từng giờ, từng phút, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương theo dõi cuộc chiến đấu của Hà Nội. Vận mệnh Tổ quốc đang nằm trong tay các chiến sĩ phòng không bảo vệ Hà Nội!”. Không chỉ đến khu phố Khâm Thiên đổ nát sau trận bom hủy diệt của B52, Đại tướng trực tiếp xuống kiểm tra các trận địa tên lửa, gặp gỡ động viên, “truyền lửa” cho bộ đội. Trọn một ngày đêm 28-12-1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có mặt tại Sở chỉ huy Quân chủng PK-KQ để theo dõi và chỉ đạo cuộc chiến đấu. Có thể nói chưa bao giờ và cũng không một cán bộ chính trị nào có đủ sức lôi cuốn và thu phục nhân tâm như Đại tướng của chúng ta, chính vì vậy dễ cắt nghĩa vì sao tất cả cán binh luôn dành cho ông sự yêu mến và kính trọng tuyệt đối!

Vốn là một thầy giáo dạy Sử, nổi tiếng là người thông kim bác cổ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghiên cứu kỹ lịch sử các cuộc chiến tranh, lịch sử quân sự thế giới. Ông nghiền ngẫm trước tác của các nhà kinh điển như Marx, Engels, Lenin, Napoléon, Tôn Tử, Clausewits, cùng một số tác giả đương đại khác. Bên cạnh đó, Đại tướng biết kế thừa tinh hoa quân sự trong binh thư của tổ tiên, đặc biệt là nghiên cứu binh thư Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi. Nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên ta rất coi trọng yếu tố thời cơ, nắm vững mỗi quan hệ giữa “thời” với “thế”. Trong tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập”, Nguyễn Trãi viết: “Người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi. Được “thời”, có “thế” thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn. Mất “thời”, không “thế” thì mạnh hóa ra yếu, yên lại thành nguy. Sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay mà thôi!”. Trong cuốn “Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, viết: “Thế là hoàn cảnh, điều kiện trong đó hai bên tiến hành chiến tranh; là hình thái bố trí, triển khai và hoạt động của lực lượng hai bên trên chiến trường… Dĩ nhiên, muốn có “thế” thì phải có một “lực” nhất định. Đặc biệt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh lên tầm cao và thực sự ông đã có những đóng góp lớn lao vào kho tàng lý luận quân sự hiện đại.

Đến nay, khó có thể liệt kê ra hết khối lượng tác phẩm đồ sộ, cũng như các luận văn chính trị quân sự, cùng những bài viết, bài nói của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Số trang in sách của ông đã lên tới hàng vạn trang, bề thế. Trong những thời điểm, những giai đoạn mang tính bước ngoặt lịch sử của dân tộc, ông đều có sách. Đó là các tập hồi ký: “Từ nhân dân mà ra”, “Những năm tháng không thể nào quên”, “Chiến đấu trong vòng vây”, “Đường tới Điện Biên Phủ”, “Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử”, “Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng”… Năm 2006, cơ quan tôi, Nhà xuất bản QĐND hoàn thành 2 bộ Tổng tập đồ sộ cho hai danh nhân đồng niên Tân Hợi (1911) là Đại tướng Võ Nguyễn Giáp và Giáo sư, NGND, Anh hùng Lao động Trần Văn Giàu. Mỗi bộ gần 1.500 trang in, khổ lớn (19 x 27).

Các tác phẩm của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp không chỉ có giá trị về khoa học mà còn có ý nghĩa lịch sử sâu sắc, chân thực, đậm đà chất nhân văn. Vâng, ông là bậc danh tướng kiệt xuất trong lịch sử dân tộc, là danh nhân văn hóa có tầm ảnh hưởng sâu rộng, được nhân dân và toàn quân tôn thờ. Ông là vị tướng của lòng dân! Yêu nước, thương dân, đồng hành cùng dân tộc, hướng tới tương lai, bài học ấy muôn đời không bao giờ xưa, cũ! Là sản phẩm của thời đại Hồ Chí Minh, tên tuổi và sự cống hiến to lớn nhiều mặt của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp sẽ mãi là niềm tự hào và trường tồn cùng non sông, đất nước Việt Nam ta!

TP. HCM, ngày 4-12-2018
Đại tá - nhà văn NGUYỄN MINH NGỌC
Nguồn: Blog Văn chương phương nam



[1] Hoàng Minh Phương: Sức mạnh Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Nxb QĐND, Hà Nội 2014, tr.52.

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2018

TRẦN LÊ SƠN Ý: NHỮNG CÔNG-ÁN-THI-CA KHÔNG GIẢI ĐÁP?

Ở lãnh vực VHNT, tôi nhận thấy, dường như trước một hiện tượng hay, một phong trào, dư luận đám đông thường chẻ đôi: Bênh / chống.

Cũng thế, khi những cây bút trẻ trưởng thành sau biến cố tháng 4-1975, rầm rộ lên đường với chủ tâm chứng tỏ sự hiện diện, hoặc cho thấy “đẳng cấp” của mình; qua nhiều chọn lựa phong cách chữ, nghĩa khác nhau - Khiến một số người đọc hoang mang, ngơ ngác trước những xu hướng như:

- Không ngần ngại dấn sâu vào lãnh vực dục tính...

- “Lên đồng chữ, nghĩa” với những chủ đề lớn như sinh, tử, triết lý hư vô... (Hoặc)

- Lý luận, biện giải về tình yêu, đời thường với những từ ngữ “cao siêu” tới mức không ai hiểu, nhằm phô diễn kiến thức “tự đồng thiếp” của họ...
Nhà thơ Trần Lê Sơn Ý

Trước những hiện tượng này, dư luận thường chẻ đôi: Một số hưởng ứng, ủng hộ. Cho rằng đó là... “cách tân” là... “đổi mới”. Là ngang tầm... hiện đại. Số khác lắc đầu! Ngao ngán! Cho là vô nghĩa. Hoặc, chỉ cho thấy nỗ lực “phá sản” chữ, nghĩa một cách đáng lo ngại!

Đứng ngoài, rất xa mấy xu hướng trên, may mắn thay, người đọc vẫn gặp được những dòng thơ trong, lành của những cây bút thuộc thế hệ trưởng thành sau biến cố tháng 4-1975. Có nhiều người rất trẻ. Họ thuộc thế hệ sinh sau tháng 4-1975.

Trong số những người trẻ làm thơ, viết văn, thuộc thế hệ vừa kể, tôi thấy có Trần Lê Sơn Ý, sinh năm 1977, tác giả thi phẩm “Cơn ngạt thở tình cờ”. Người được nhà thơ Ý Nhi cho là có những bài thơ “rất trong” và, “rất tươi”.

 Không “đồng thiếp chữ, nghĩa” để chứng tỏ “đẳng cấp” mà, chỉ bằng vào những cảm xúc ghi nhận được từ đời thường, nhưng cõi-giới thi ca của Trần Lê Sơn Ý không vì thế mà không mới. Lạ. Thí dụ trong bài “Hẹn nhau một nụ cười”, Trần Lê Sơn Ý viết:

 “Hẹn nhau một nụ cười 

Giữa những làn xe
Ào ạt
Nụ cười không dừng lại mà trôi
Người đi xuôi ngược

Hẹn nhau một cái gật đầu
Mỗi lần đi ngang ô cửa
Bao giờ cũng tưởng tượng
Hoa tầm xuân giăng biếc góc đường

Hẹn nhau một cơn mưa xuân
Chiếc dù đỏ chói chang chặn bao lời bất tận
Bài hát đành là giai điệu nằm yên
Đợi...”

Và:

“Nụ cười thành đoá hoa bất thần
Nở giữa đi về dào dạt
Tôi cắm trong bình tôi
Ngày mai
Mùa còn đến kịp.”

Ba câu cuối, ở đoạn thơ trên, cho người đọc “đóa hoa bất thần” được “Tôi cắm trong bình tôi / Ngày mai / Mùa còn đến kịp.”

Hoặc mấy câu trong bài “Đồng thoại”, Trần Lê Sơn Ý viết:

“...Tôi đã hát những đêm đông xám buốt, những trưa vàng
Hát trên đầu ngọn sóng, hát dưới đồi sỏi xanh
Hát bằng nỗi sợ hãi của chú ve
Dưới sân khấu chỉ có mùa hè mặc áo đen làm thính giả...” 

Tôi nghĩ, không cần phải có một khả năng liên tưởng mạnh mẽ gì, chỉ với chút lắng tâm, nghiêng hồn, ta cũng có thể thấy một loạt hình ảnh và, những cảm thức đậm thi tính tương tác chặt chẽ với nhau, như một nối kết bất khả chia, lìa - - Giữa “chú ve, nỗi sợ hãi, sân khấu (mùa hè) thính giả” và, bất ngờ hình ảnh thật mới mẻ: “mùa hè mặc áo đen”...

(Thính giả nào mặc áo đen trong đoạn thơ này (?) Nếu không phải chính là chú ve lắng nghe tiếng hát mình dội lại niềm cô tịch, mang tên “nỗi sợ hãi”?)

Trước đó, Trần Lê Sơn Ý cũng cho người đọc cảm thức riêng, bất ngờ của cô, khi:

“Chỉ xin làm con phù du đơn độc
Một lần bay chạm mặt bình minh

Không “đồng thiếp chữ, nghĩa” để chứng tỏ “đẳng cấp”, không khai thác dục tính để chứng tỏ... “bản lĩnh”... thời thượng như một số những cây bút trẻ khác, Trần Lê Sơn Ý chỉ bằng vào những cảm xúc ghi nhận được từ đời thường... Nhưng cõi-giới thi ca của Trần Lê Sơn Ý, tự thân “rất trong”  “rất tươi”, đã mang lại cho người đọc một thổ-ngơi khác. Chúng như những cơn gió đưa hơi mát và, chút heo may về giữa đất trời phỏng, rẫy nắng hạn. Chúng như những trận mưa êm đềm, lay tỉnh ta thức giấc giữa ngột ngạt đêm; để thấy mình tách thoát khỏi mạch chảy dằn xóc xu hướng “thức ăn nhanh”, “mì ăn liền” hiện nay:

Em nhận ra niềm vui kia mang gương mặt của nỗi buồn
Và từ đó nỗi buồn cứ theo em mỗi lần bay lên và rơi xuống”

(Trích “Bông tuyết”)
Hoặc:

“Này đôi mắt của bình nguyên
Đừng giấu trong veo trên đầu ngọn cỏ
Tôi sợ mặt trời lên 
Này đôi mắt của bình nguyên
Đừng giấu giọng nói của mình trong mắt lồ ô
Tôi làm sao tìm nổi
Chẳng lẽ ngàn năm ngồi đợi gió mơ hồ 
Này đôi mắt của bình nguyên
Đừng giấu đỏ hoe vào sau bờm ngựa
Hãy cứ nhìn tôi như lá cỏ ấy
Cho ngựa ăn đi rồi dắt chúng ra về”

(Trích “Đôi mắt bình nguyên”).

Tuy nhiên, một khía cạnh khác trong thơ Trần Lê Sơn Ý khiến tôi chú ý nhiều nhất, là những câu thơ như những câu hỏi bình thường, nhưng gợi mở của chúng lại dẫn đắt tôi tới liên tưởng của những... “công án”. Tôi muốn gọi đó là “công-án-thơ”, trong cõi-giới thi ca Trần Lê Sơn Ý.

Thí dụ trong bài thơ “Gọi mưa”, Trần Lê Sơn Ý viết:

“Đôi mắt em làm tôi nhớ tiếng chuông chùa”

Trước nhất, với tôi, câu thơ này, như cánh cửa mở rộng, thênh thang cho mỗi người một cảm nhận riêng - - Một câu thơ hôm nay (cũng như) hôm qua, ít có.

Và, chính tính thênh thang, mở rộng của câu thơ, đem đến cho tôi câu hỏi: Tiếng chuông chùa nào?

- Tiếng chuông chùa gợi niềm an lạc?
-Tiếng chuông chùa phổ độ chúng sinh?
-Tiếng chuông chùa chiêu hồn quỷ đói?
- Tiếng chuông chùa lưu ý ta cuộc đời vô thường? (Hay)
- Tiếng chuông chùa nhắc nhở ta buông bỏ “ngã chấp”?
... 

Cũng thế, chỉ cách hai câu, Trần Lê Sơn Ý viết:

Và tiếng hát em sẽ trở lại
Những ngôi mộ trên cao cũng bớt u buồn
”...

Trong tôi, lại dấy lên những câu hỏi: Tiếng hát nào?

- Tiếng hát chia sẻ nỗi buồn, nhập được vào những ngôi mộ?
-Tiếng hát là chiếc cầu nối âm, dương?
-Tiếng hát thâu ngắn khoảng cách giữa hiện thực và cõi u linh?
- Tiếng hát đem ánh sáng bình minh vào sâu hầm mộ tối? (Hay)
- Tiếng hát như những lời ru chân thiết, dành cho những lãng quên, vốn là bản chất lạnh lùng, tàn khốc của thời gian?

Tôi không biết. Tôi không có câu trả lời rốt ráo. Ngay Trần Lê Sơn Ý, tôi nghĩ, cũng sẽ không có câu trả lời rốt ráo cho “công-án-thơ” của mình.

Với tôi, đó là những câu thơ hiếm hoi. Những câu-thơ-mở tới những tầng trời khác.

Bằng vào tự tin khi tách biệt mình khỏi những xu hướng “đồng thiếp”; bằng vào những “công-án”, tình cờ hiện ra như những điểm son trong thơ của mình, tôi cho đó là những dấu ấn mạnh mẽ nhất trong cõi-giới thơ Trần Lê Sơn Ý vậy.

DU TỬ LÊ
Garden Grove, June 2015
Nguồn: dutule.com




Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2018

PHAN CÁT CẨN “GOM LẠI TỪNG MẢNH HỒN LÀNG ĐANG VỠ”

Đường nghề và đường nghiệp đang mở ra trước mắt anh. Phong thuỷ và thơ trong anh như cặp tình nhân đang hô ứng và gọi giục…
Nhà thơ Phan Cát Cẩn

Tôi biết Phan Cát Cẩn là một nhà phong thuỷ trước khi biết anh là một nhà thơ. Ấy là vào một sáng xuân Quý Tỵ 2013, tôi cùng nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và nhà thơ cựu chiến binh Mỹ Bruce Weigl đến thăm tư gia anh tại thôn Đông Viên xã Đông Quang huyện Ba Vì - Xứ Đoài mây trắng, nơi “đất tụ khí anh hoa”, có núi Ba Vì hùng vĩ mà Nguyễn Trãi gọi là “Núi Tổ của nước Nam ta”, có “Sông Đáy chậm mình qua Phủ Quốc”, có “Mảng thành rêu không cũ giữa tim người”, khắc ghi vào lòng du khách trong và ngoài nước khi đến tham quan vùng đất “địa linh nhân kiệt” này những ấn tượng sâu đậm không thể phai mờ. Phan Cát Cẩn hối hả và tất bật tiếp khách, bởi không chỉ tiếp đón chúng tôi mà anh còn phải nghe và trả lời những cuộc điện thoại liên tục gọi đến cùng hàng chục vị khách đến tận nhà mời anh đi xem giúp hướng nhà , hướng bếp để khai lộc đầu xuân. Sau những lời chúc phúc ấm áp chân tình với những ly rượu Đông Lâu nồng đậm men quê Xứ Đoài, Phan Cát Cẩn tháp tùng chúng tôi lên đền Thượng chót vót đỉnh núi Ba Vì xin quẻ cầu may. Trong một phút hứng khởi, anh đột nhiên ngẫu hứng đọc bốn câu thơ:

Lên Ba Vì lòng ta tĩnh lại
chơi ván cờ cùng gió núi cùng mây
bỗng thấy một lần ta thanh sạch
bỏ lại dưới kia gót bụi trần.

Sau cái khoát tay chỉ xuống dưới chân núi mịt mù mây trắng và một nụ cười hồn nhiên nở trên môi Phan Cát Cẩn, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều dịch lại bằng tiếng Anh bốn câu thơ trên cho nhà thơ Mỹ cùng thưởng thức. Bruce cười tít mắt, gật đầu nói bằng tiếng Việt: Hay… Hay!

Chuyến ngưỡng tâm non Tản lần này cũng giống chuyến ngưỡng tâm non Tản lần đầu tiên cùng nhà thơ Hữu Thỉnh đầu xuân 2008 đem lại cho tôi một cảm giác hết sức thanh tĩnh, tâm hồn an nhiên đến lạ kỳ. Cũng chính vào những giây phút đó, tôi đã dự cảm rằng Phan Cát Cẩn sẽ trở thành một nhà thơ. Quả đúng như vậy, sau khi cho ra đời hai tập thơ liên tục “Bến vắng” và “Những chiều mây cổ tích” năm 2013, năm 2014 anh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, thoả một ước nguyện ấp ủ bấy lâu trong lòng. Từ khi trở thành hội viên, thơ Phan Cát Cẩn có một bước chuyển biến mới, ý tứ thơ anh gắn chặt với những bước đi và những kỷ niệm sâu đằm trong cuộc đời anh, bắt đầu có sự lắng đọng đa nghĩa và bớt đi nhiều những kể tả dài dòng. Bằng chứng là mùa thu năm 2014 anh cho ra đời tập thơ “Về đâu chim ngói xanh” và mùa thu năm nay 2015 là tập “Về miền đất sinh thành”còn tươi nguyên màu mực.

Phan Cát Cẩn trở thành nhà phong thuỷ, như tôi được biết, hoàn toàn là một cơ duyên, như là có sự xui khiến của trời đất, do say mê cá nhân, tự mày mò nghiên cứu, tự tìm hiểu học tập qua sách vở. Và anh trở thành một nhà thơ cũng tương tự như vậy. Với anh, thơ và phong thuỷ gắn kết với nhau, bổ khuyết cho nhau. Bởi anh cho rằng cứu cánh của phong thuỷ là đem lại sự hanh thông giữa lòng người và vận khí trời đất; thuận thiên địa, thuận lòng người là chìa khoá chế hung ích cát, dung dưỡng lòng tin, bồi bổ ý chí quyết tâm, khiến con người có thể sống an lạc thanh tĩnh, vượt qua những trắc trở, thậm chí cả tai nạn nguy nan trong đường đời. Còn cứu cánh của thơ không gì khác là bồi bổ tâm hồn, cảm xúc, nhân đạo hoá con người, vĩnh cứu hoá cái đẹp. Như vậy cả thơ và phong thuỷ đều hướng tới cái chân, cái thiện cho con người, vì con người. Với anh, đó là cái đạo của phong thuỷ và cũng là cái đạo của thơ. Cho nên, mỗi khi đến một vùng đất mới, về một vùng quê kiểng, hay xem hướng một căn nhà, một mảnh đất, dự đoán thời gian có thể cải táng một ngôi mộ v.v., chớp được một ý thơ, tứ thơ hay là đêm về anh ngồi cặm cụi làm thơ. Với nghề phong thuỷ và nghiệp thi ca anh đau đáu một nỗi niềm làm được chút gì đó có ích cho con người, cho quê hương, bằng cách “gom lại từng mảnh hồn làng đang vỡ”, khi mà các phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nước nhà đang có nguy cơ mai một, cần được bảo trì, phát huy và phát triển phù hợp với yêu cầu của thời đại mới, lên một tầm vóc mới.

Ý tình trên đây của Phan Cát Cẩn, tôi thấy bộc lộ rõ nét trong tập thơ “Về miền đất sinh thành”. Anh thổ lộ:

Mỗi lần qua cổng làng
lại vấp vào ký ức
những gánh gồng tất tả
những hạt lúa vặn mình trên đôi vai nhọc nhằn
loang mồ hôi muối
cánh đồng - nơi vết rạ đâm thấu vết nứt chân người
vết nứt mặt ruộng như vết dao đâm…

Đó là cái cổng làng mãi mãi vẹn nguyên trong tâm thức, để rồi sau hai mươi năm trở lại khiến anh bừng ngộ và nung nấu một ý chí:

Hai mươi năm trở lại
ngắm mảnh rêu bám hờ năm tháng
ngắm rễ đa cuốn vòng nguyệt quế
vòm cổng cong, khuyết nửa vầng trăng
gom lại
từng mảnh hồn làng đang vỡ…

“Gom lại từng mảnh hồn làng đang vỡ” quyện hoà giữa nghề và nghiệp, trở thành hồn cốt của thơ anh. Với hồn cốt đó, tôi hy vọng anh sẽ mang lại nhiều niềm vui cho đời, nhiều hữu ích cho con người. Chắc chắn sức mạnh ma quái của đồng tiền - “con đĩ nhân loại” như Sêchxpia đã chỉ đích danh không thể làm tha hoá một nhân cách và một tình thơ.
Bìa tập thơ Về miền đất sinh thành của Phan Cát Cẩn

Với Phan Cát Cẩn, “gom lại từng mảnh hồn làng đang vỡ” trước hết là về với “miền đất sinh thành - nơi ta trở về nguồn cội”, để “nhớ ngón chân Giao Chỉ thuở nào / sinh Thánh Tản Viên”, để “mắt hướng về xa / đôi bờ huyền thoại” , đặng nhận ra “bầy ngô trổ cờ một thuở / đò chiều buông neo trong giá buốt / giầy cỏ ấm chân ai chiều đông lạnh”, và để thấy “Núi Tản in bóng sông Đà / đảo Ngọc dập dềnh thương nhớ / những con đường dẫn về hư ảo”. Bởi, chính “miền đất sinh thành” ấy là nơi có mẹ ta “Ráng đỏ cuối ngày / mài lõm con đường sống trâu / mẹ đi-về trong nắng quái/ loang lổ chiều đông / đau nhức lưng còng / khi thời tiết giao mùa / âm thầm cật vấn lòng con”. Ở đó, có quê ngoại ta “Cha già râu ám thuốc lào / Mẹ già nhai trầu bỏm bẻm / mây trắng đầu non mòn mỏi / lối vườn ngập lá vàng rơi”, mà nay trở về ta chỉ thấy “Trời cũ, dòng sông cũng cũ / bao nhiêu gò bãi ngổn ngang / cát sỏi xô nhau thành đống / đâu còn con nước xanh trong”. Những rơi rụng, những mất mát khi trở về mảnh đất nuôi ta khôn lớn thành người, ta không thể không“gom lại”. Và đặc biệt ở đó còn “một thuở em”“Trăng mùa đông trắng bệch / bên đồi chè em xám bạc màu trăng / sông Chảy chở tháng năm / khoác cơn mưa tìm nhau tóc ướt… / mây chiều cánh én nghiêng chao”, để rồi “Nhìn lũ kiến lửa diễu hành bên ngõ / Tôi ngẩn ngơ / Ngày em vu quy…” với bao xa xót ngậm ngùi :“Tôi nhấp em trong ly rượu cặn /Ngoài trời mưa trong bóng / Buồn nao lòng / Buồn đắng đót / Em qua đời tôi như mùa thu”. Đó không chỉ là ký ức mà là văn hoá, là hồn vía nơi ta sinh thành không thể nguôi ngoai, không thể quên lãng. Nghĩa là, chỉ có “gom lại từng mảnh hồn làng” đang rụng rơi trước khắc nghiệt của thời gian, đang bị bào mòn, xâm thực trước sự xuống cấp của văn hoá, đạo đức và lối sống, thì ta mới không đem “bán Phật”, không đem “những niềm tin” ra mà “rao bán”, bởi “liệu có mua về, có cứu rỗi được trái tim lầm lỗi”. Và cũng chỉ có như vậy, ta mới khắc ghi mãi mãi bài học “ Người Việt thưở ấy dại khờ / bị quỷ kế ăn cắp trái tim”, để đời đời kiếp kiếp thấu nhận “Nước giếng Ngọc ngày đêm rửa mặt lịch sử / cho ta nhìn rõ kẻ thù / Hoàng Sa, Trường Sa luôn trong vùng mắt bão”.

Phan Cát Cẩn không còn là một nhà phong thuỷ “chân đất” và một “lều thơ” như xưa, giờ đây anh đã trở thành một thầy phong thủy có không ít học trò muốn kế nghiệp và một nhà thơ thực thụ được tu nghiệp qua một lớp bồi dưỡng viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam. Đường nghề và đường nghiệp đang mở ra trước mắt anh. Phong thuỷ và thơ trong anh như cặp tình nhân đang hô ứng và gọi giục. Tôi cầu mong anh gặt hái nhiều thành công hơn nữa. Lẽ nào sau “Về miền đất sinh thành”, anh lại không có những miền thơ mới lắng đọng hơn, chiếm lĩnh được nhiều trái tim độc giả hơn?

Thành phố Hồ Chí Minh, một đêm thu 2015
QUANG HOÀI
___________________________________

Nhà thơ Phan Cát Cẩn tên thật là Phan Văn Cẩn, sinh 1946 tại Đông Viên, Ba Vì, Sơn Tây, Hà Nội. Ông hoạt động văn học từ năm 1992, có bài đăng ở các báo trung ương, địa phương và các báo chuyên ngành văn chương.

Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Tác phẩm đã xuất bản:

Miền hư o - thơ, NXB Hội Nhà văn 2012.
Bến vắng - thơ, NXB Hội Nhà văn 2013.
Những chiều mây cổ tích - thơ, NXB Hội Nhà văn 2013.
Về đâu chim ngói xanh - thơ, NXB Hội Nhà văn 2014.
Về miền đất sinh thành - thơ, NXB Hội Nhà văn 2015.
Mùa lên hương - thơ, NXB Hội Nhà văn 2016.

Nguồn: NVTPHCM



NHÀ VĂN THÙY DƯƠNG: TRĂN TRỞ VỚI MỖI THÂN PHẬN NGƯỜI

Nếu không biết Thùy Dương sinh ra và lớn lên ở Hải Dương, sẽ đoán   chắc nàng là người Hà Nội gốc. Gọi là nàng v ì nàng không chỉ xinh đẹp, ...

BÀI ĐỌC NHIỀU