Thứ Tư, 26 tháng 9, 2018

LÊ THỊ THANH TÂM & SỰ THỂ TẤT CỦA TRÍ TUỆ

Có 2 logic của 2 câu chuyện trong cuộc tranh luận “nên hay không nên để tác phẩm Chí Phèo trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11”.
TS. Lê Thị Thanh Tâm

Câu chuyện thứ nhất, logic về mặt giáo dục: nên chọn cái gì để có tính giáo dục liên quan đến tâm sinh lý học sinh?

Câu chuyện thứ hai, logic về mặt cảm thụ văn học: tôi không chọn tác phẩm này vì nó dở, xấu.

Những người ở hai câu chuyện này đang tranh cãi về hai câu chuyện khác nhau, với logic khác nhau.

Anh Nguyễn Sóng Hiền nói câu chuyện thứ nhất. Và những người phản đối anh Hiền đang nói câu chuyện thứ hai, hoặc giả thiết rằng anh Hiền cũng đang nói câu chuyện thứ hai. Vậy, suy ra, có một logic thứ ba nằm ở giữa là: hễ động đến câu chuyện thứ nhất thì sẽ có câu chuyện thứ hai. Nghĩa là: câu chuyện thứ hai là hệ quả tất yếu, và nghĩa là, không bao giờ có thể giải quyết câu chuyện thứ nhất, và nghĩa là: đi đường nào cũng về La Mã, nói thế nào cũng sai.

Anh Hiền không nói thay các nhà ngữ văn, cũng không “hỗn hào” gì với giới chuyên môn, rằng anh Hiền không có chuyên ngành văn học mà cũng có ý kiến. Anh Hiền được quyền đề xuất và góp ý từ góc độ một nhà nghiên cứu giáo dục.

Sự nhập nhằng đó khiến người trong cuộc “cũng tan nát lòng”. Người nói câu chuyện thứ nhất không mắc cái tội mà người nói câu chuyện thứ hai kết cho, nhưng anh ta phải chịu tội. Còn người nói câu chuyện thứ hai thì tưởng mình đang nói câu chuyện thứ nhất, hoặc cương quyết muốn hiểu câu chuyện thứ nhất thành câu chuyện thứ hai.

Và thế là có hai hệ quả: một cuộc tranh cãi mà ai cũng thấy bị tổn thương. Người yêu văn chương say đắm, nức nở với tâm sự của Chí Phèo, hoặc cảm thấy tâm đắc vô hạn với mô hình cái làng Vũ Đại năm xưa để nhận thức một xã hội đặc thù của Việt Nam thời Pháp thuộc, thời cũ mới đều bi thiết, thì thấy đau đớn như bị xúc phạm và phải lên tiếng rất quyết liệt. Người đang bàn chuyện về sự phù hợp của tâm lí, lứa tuổi khi tiếp cận kiến thức thì bị xem là tội đồ đốt đền, sinh chuyện, non nớt… Câu chuyện đầy sự chia rẽ, chia tay dữ dội này về quyền được yêu và quyền được “không yêu” đã đẩy đời sống học thuật Việt Nam sang một cánh cửa mới - nơi người ta buộc phải đối thoại với nhau một cách đau đớn. Tôi không tin có ai hả hê được trong chuyện này, và chuyện thắng thua lại càng không tưởng. Chỉ có những sự chia rẽ vô cùng sâu sắc về quan niệm giá trị. Cơn bão táp đổ lên tượng đài bấy lâu, có thể tượng đài không đổ, nhưng lộ ra rêu phong của nó bị giấu kín.

Khi Phan Khôi và Nguyễn Thị Kiêm (Manh Manh nữ sĩ) đăng đàn bảo vệ Thơ Mới, có một sự phi logic đến kì lạ. Hai người này nói về Thơ Mới rất hùng hồn, và làm thơ “mới” rất…dở, họ kiên gan dùng cái dở (thơ dở của mình) để chứng minh cái Mới (của thơ mới). Thế mà cái Mới (Thơ Mới) vẫn ra đời, tất nhiên ra đời với một thế hệ tài năng hiếm hoi, nhưng kẻ khai trí vẫn không bị bỏ quên. Trong tiểu luận tài hoa trác tuyệt “Một thời đại trong thi ca” của Hoài Thanh, ông đã hoàn toàn thể tất điều ấy. Vì ông biết rằng, những người lên tiếng động đến một điều rất nghiêm trọng của thơ ca thời ấy. Họ vẫn xứng đáng là những nhà khai sơn phá thạch, vĩnh cửu có tuổi tên trong chặng đường khai sinh Thơ Mới.

Sự thể tất có tính trí tuệ và trí thức của Hoài Thanh cắt nghĩa nền tảng học thuật trước 1945. Đó là sự thể tất rất tự nhiên, bởi khi có thể nhìn trực diện vấn đề và không cần phải bảo vệ một điều gì đó theo thói quen, thì người ta sẵn sàng thể tất. Đó là thứ phóng khoáng có được từ một tinh thần tự do nhận biết, chịu trách nhiệm về sự nhận biết của mình.

Anh Nguyễn Sóng Hiền đã viết một bài đề xướng đưa tác phẩm Chí Phèo ra khỏi chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11. Đó là một mệnh đề có vẻ gây thách thức, nhưng đằng sau nó là cả một sự thật sống về những cái đang bị dồn nén và ứ đọng trong giáo dục, cảm thụ văn học.

Anh Hiền đề xuất khá giản dị và lập luận hơi chủ quan, có phần mộc mạc, nên “nhận được” một sự chống đối không thể lớn hơn, như thể cả một xã hội nổi lên cuồn cuộn, thương tiếc anh Chí đến trào nước mắt. Nhưng nếu nhìn trực diện vấn đề của cảm thụ văn học đối với lứa tuổi và sự chênh, độ chênh (không thể không có) giữa việc tôn vinh tác phẩm Chí Phèo, dạy Chí Phèo cách đây mấy chục năm, đến việc điều chỉnh lại cách hiểu, cách cảm nhận Chí Phèo trong thời kì đương đại của thế kỉ XXI thì chắc rằng, một sự thể tất tự nhiên là hoàn toàn có thể - thể tất cho cách nói đầy sơ hở của một nghiên cứu sinh đang có sự suy nghĩ tâm huyết cho nền giáo dục nhưng chưa thể “kín kẽ”, giàu “kinh nghiệm chinh chiến” như các đấng bậc ở quê nhà.

Ý kiến đề xuất của anh Hiền, tôi muốn nhấn mạnh, là một trường hợp khoa học cần suy nghĩ chính đáng và nghiêm túc.

Tôi tìm lại năm câu hỏi hướng dẫn học trò hiểu về tác phẩm Chí Phèo, bao gồm:

Câu 1: Cách vào truyện độc đáo của Nam Cao và ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo.

Câu 2: Ý nghĩa cuộc gặp gỡ giữa Thị Nở và Chí Phèo và diễn biến tâm trạng của Chí Phèo.

Câu 3: Tâm trạng của Chí Phèo khi bị Thị Nở từ chối chung sống.

Câu 4: Nghệ thuật điển hình hóa nhân vật đặc sắc và tư tưởng nhân đạo của Nam Cao.

Câu 5: Đặc sắc trong ngôn ngữ kể chuyện của tác giả và ngôn ngữ nhân vật.

Trước hết, cần phải nói rằng, không bao giờ có một cuộc chia li vĩnh viễn giữa cảm thụ văn học thuần tuý và cảm thụ văn học từ góc độ tâm lí lứa tuổi. Không ai có thể từ bỏ quy luật này, nếu từ bỏ nó thì giáo dục chẳng còn ý nghĩa bao nhiêu hoặc rất chông chênh. Vì thế, với mỗi câu hỏi trên, sẽ có cách giải thích kết hợp cả các mức độ, khía cạnh cảm thụ.

Về mặt cảm thụ văn học thuần túy, học sinh hầu hết sẽ trả lời các câu hỏi này một cách khá suôn sẻ, vì giáo viên sẽ hướng dẫn họ. Ngoài ra, câu 4 và câu 5 là hai câu hỏi hay, hoàn toàn không có gì để lo lắng, vì đó chính là biệt tài, là di sản khổng lồ của Nam Cao, đáng để học sinh học tập và hiểu thêm (dù khá khó).

Về mặt tâm lý lứa tuổi, trừ những em đặc biệt giỏi hoặc nền tảng nhận thức tốt, đặc biệt là nhận thức hư cấu nghệ thuật (tôi chắc rằng không thể là 100%) thì các em còn lại sẽ phải đối mặt với một hiện thực vô cùng méo mó và ghê rợn (từ câu 1 đến câu 3). Sau đó, các em ấy sẽ trấn tĩnh và hiểu rằng, đằng sau sự méo mó ghê rợn đó là một tâm hồn cao thượng của nhà văn, thương yêu những người dưới đáy xã hội, những người rất mong muốn làm người lương thiện.

Các em ấy sẽ cố nhớ sự cắt nghĩa này để làm bài kiểm tra 15 phút, 1 tiết, thi học kì và thi đại học. Còn bản thân các em sẽ làm quen dần với những mệnh đề như: tiếng “chửi” xã hội rất có ý nghĩa, Thị Nở và Chí Phèo gặp nhau như một cặp “vừa đôi”, rồi các em sẽ ngạc nhiên sao giọng văn nhà văn bỡn cợt lạnh lùng đến thế, và rồi tiếp tục yên tâm là cô giáo nói, giọng văn (một khái niệm rất khó tư duy ở độ tuổi 16, 17) ấy thể hiện một sự cảm thương vô hạn.

Rồi khi Chí Phèo bị từ chối chung sống với Thị Nở thì tâm lý của nhân vật trở nên biến động dữ dội dẫn đến những cái chết rất thê thảm, các em học sinh tuổi hoa niên sẽ được nhắc nhở rằng Chí Phèo giết Bá Kiến không phải vì say rượu đâu, mà vì hắn nhận ra bi kịch cuộc đời và tuyệt vọng cùng cực. Một học sinh ở tuổi 17 (khung tuổi dễ bị trầm cảm và kích động) có chỉ số IQ và EQ bao nhiêu thì sẽ hiểu rằng: khi tuyệt vọng cùng cực, người ta không nên hành động như Chí Phèo? Nên nhớ, cái vô thức cũng vẫn tham gia chỉ đạo hành xử con người không thua kém ý thức là mấy. Chí Phèo đi vào vô thức - đó là điều đáng nghĩ.

Tôi chỉ làm một phép tính giả thiết đơn giản. Một lớp học có 50 em, tôi “thể tất” cho rằng 49 em đã hiểu trọn vẹn, hiểu sâu sắc, viết hay như người nghiên cứu, (lớp học trong mơ) sau khi được giáo viên “khai thị” thì vẫn còn 1 em rất khó khăn để… quên đi mọi cảm xúc, ấn tượng có phần “ghê rợn” mà tác phẩm mang lại. Một em đó nhân với bao nhiêu em nữa của mỗi lớp, và của cả nước?

Người làm giáo dục hoàn toàn có quyền đặt ra câu hỏi đó. Không có một quyền uy tối thượng nào không cho phép người ta suy nghĩ và giả thiết như thế. Người trí thức làm sang cho nhau bởi giúp nhau suy nghĩ, người ta cần phải suy nghĩ liên tục để tạo một môi trường nghĩ ngợi cho nhau và vì sự nghĩ ngợi mà đi xa hơn trong sự hồi âm chân thành về lý tưởng.

Nếu như cảm thụ văn học tách rời khỏi tâm lý học đường (tôi nhấn mạnh là tâm lý, không phải sự yêu thích thông thường hay khả năng cảm thụ) thì đó chỉ là câu chuyện của giới văn chương. Ở đây là câu chuyện của học sinh. Các em cần được chăm sóc cả về nhu cầu thẩm mỹ, nhận thức và cả sự sợ hãi, lo âu, bế tắc. Các em cần được hình dung như những con người bình thường và đi qua thời trung học như một kỉ niệm của những ngày tháng tốt đẹp, trong lành (không có nghĩa là nhạt nhẽo), chứ không phải những người sẽ thành các nhà bác học về văn chương, hiểu được cả sự sâu xa của làng quê Vũ Đại ngày ấy để… làm hành trang vào đời (!) với khung năng lực mới của kĩ năng thế kỉ XXI.

Khai phóng, lấy học sinh làm chủ, đổi mới giáo dục, những chủ đề đó, định hướng đó chắc chắn không phải đi liền với việc đưa "Chí Phèo" ra khỏi sách giáo khoa, nhưng nó được phép đặt lại câu chuyện về tâm lý giáo dục trong tiếp nhận văn học - tôi nhắc lại, nó được phép, được quyền - mà Chí Phèo là một “trường hợp nghiên cứu điển hình”. Chí Phèo là một ví dụ.

Một em bé 9 tuổi có thể tự đọc sách Những người khốn khổ của Victor Hugo (chính là trường hợp của tôi). Nhưng tác phẩm ấy, để được học và học được, cần đến 10 năm sau hoặc lâu hơn. Đọc sách, yêu và cảm thụ văn học là một chuyện khác hoàn toàn việc phổ cập giáo dục một tác phẩm, vì tác phẩm trong sách giáo khoa là một chiến lược tác động sâu rộng, gần như không có cơ hội để hối tiếc.

Tác phẩm văn học tất yếu không xui khiến người ta làm theo nó, vì nghệ thuật nói chung không phải là thông điệp hành động theo nghĩa đơn giản thô sơ (nghệ thuật là thông điệp của sự lắng đọng và sự ước lượng lại ý nghĩa đời sống), nhưng tác phẩm văn học “chuẩn bị” cho hành động. Xin đừng nói đấy là “xã hội học dung tục” hay “giáo dục học dung tục”, mà đó là nguyên lý của sự tiếp nhận văn học, là sự thật của yếu tố tác động xã hội mà nền văn học nào cũng có.

Ai biết được, trong sự “chuẩn bị” ấy, có cả những thứ bóng tối mà các em đã được biết đến quá sớm và quá khốc liệt, trong khi bối cảnh xã hội và định hướng giáo dục quốc tế đã thay đổi hơn cả thế kỉ. Dạy Chí Phèo trong thời chiến là một sách lược có ý nghĩa. Dạy Chí Phèo thời hậu chiến cũng có thể vẫn còn nhiều cảm xúc. Dạy Chí Phèo trong bối cảnh hiện nay, khi số lượng du học sinh mỗi năm tăng vùn vụt, người sống đã bớt nhu cầu “yêu, căm, chiến, lạc” và có nhu cầu thưởng thức một cuộc sống bình an, hạnh phúc trong tâm hồn thì việc giảng dạy ấy vẫn rất đáng để suy nghĩ, nghĩ đi và nghĩ lại.

Trong những kĩ năng mới của người trẻ bước vào thế kỉ toàn cầu, có mấy kĩ năng rất khó dạy, đó là kĩ năng hợp tác và chịu trách nhiệm về bản thân. Bình thường đã khó để dạy, lại thêm một hình tượng văn học sừng sững kia, có bao nhiêu em học sinh vượt qua sự trải nghiệm của anh Chí để dự cảm rằng, tiếng than vãn khẩn thiết “Ai cho tao lương thiện” sẽ còn có thêm nhiều ý nghĩa khác, ngoài ý nghĩa tố cáo tận cùng một xã hội đau thương và bế tắc.

“Ai cho tao” tức là tao có quyền đòi hỏi, không được thì tao giết? “AQ chính truyện” của Lỗ Tấn là sự phê phán nhược điểm quốc dân tính Trung Hoa. Còn Chí Phèo của Nam Cao được ưu ái vô hạn, mặc dù khoác lên mình nhiều thứ căn tính “bây giờ đang nhan nhản khắp nơi ở xã hội Việt Nam” nhưng được hiểu theo hướng “chủ nghĩa cảm thương”. Đó là sự khác biệt về tầm vóc.

Phê phán chính dân tộc mình qua hình tượng văn học hoàn toàn không giống phê phán cái gì đó bên ngoài để làm nguội hết sự phê phán dân tộc, biện minh cho sự phê phán. Sự khác biệt căn bản này khiến Chí Phèo chỉ có thể được vinh danh trên thế giới với tư cách là … “một bản sao hơi giống AQ” và mang đặc sản Việt Nam chứ không phải là một sáng tạo kiệt xuất của loài người.

Dạy Chí Phèo ở đại học là một lựa chọn chuẩn xác, khi người học đã qua tuổi 18 và được nâng đỡ một cách chín chắn bởi nền tảng vốn sống, vốn chữ nghĩa đã phần nào đủ để nhìn ra Chí Phèo như một tác phẩm có giá trị mà không bị bất kì một sự ám ảnh non thơ nào. Năng lượng của tác phẩm Chí Phèo cần được phát tiết nhiều hơn ở những vỉa tầng sâu sắc hơn, va đập với hiện thực mới nhiều hơn, và tạo ra những ẩn nghĩa thú vị hơn theo những cách đọc chuyên nghiệp, thậm chí từ góc độ so sánh văn học thế giới. Còn học sinh phổ thông đại trà, trước khi theo được những cách đọc chuyên nghiệp và tròn trĩnh, đọc trang nào cũng rưng rưng nước mắt như những người yêu văn chương, thì họ còn có thêm gánh nặng về một anh Chí bị bóp nát và uốn lượn đủ kiểu để nói cho được “số phận người nông dân bị lưu manh hoá”.

Bênh vực Chí Phèo không khó, nhân vật này càng đau khổ bao nhiêu trong thế giới hư cấu của Nam Cao thì càng có đời sống phong lưu, ngạo nghễ bấy nhiêu trong sự tiếp nhận suốt mấy chục năm qua ở Việt Nam. Nhưng đặt lại và tìm hiểu lại (dù nhức nhối) cái ảnh hưởng có thật của Chí Phèo trong đôi mắt trong suốt của người học thời nay thì không phải ai cũng muốn làm, hoặc dám làm.

Khép lại câu chuyện, tôi đặt câu hỏi: Người bàn câu chuyện thứ hai (như tôi nói ở trên) có đang chắc rằng họ đang bàn câu chuyện thứ nhất không? Nếu họ đang thực sự nói câu chuyện thứ nhất, thì một sự thể tất để có một tiếng nói tranh luận phong nhã là điều hoàn toàn có thể.

Lo lắng “mất” Chí Phèo cao hơn cả sự lo lắng cho cách tiếp nhận và hệ quả tiếp nhận của học sinh - điều đó nói lên một thực tế gì trong não trạng giáo dục? Thực tế thì, Chí Phèokhông bao giờ “mất”, một tác phẩm vĩ đại thế sao có thể mất, còn nhân cách học sinh có thể bị “chuyển biến” mà không ai hay. Và những người dạy học, sau khi “cháy hết mình” trong lớp học, trong tác phẩm, đã về nhà yên nghỉ như “người nông dân cày xong thửa ruộng của mình”, lòng phơi phới vì đã truyền đạt “cái đẹp của văn chương” đến cho các em học sinh thân yêu, thì có bao nhiêu tâm hồn thơ trẻ đang hồi hộp lo âu hoặc lãng quên vĩnh viễn một anh Chí không mấy ăn nhập với đời sống hiện tại.

Có thể sau cuộc tranh luận này, Chí Phèo vẫn được giới chuyên môn trân trọng đặt nằm yên trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11, và cách giảng dạy có thể sẽ khác đi phần nào (như là mở rộng “Chí Phèo trên các trường đại học thế giới” chẳng hạn…). Điều đó chưa quan trọng bằng sự việc: đầu thế kỉ XXI, một cuộc tranh luận có thật về một tượng đài văn học hiện thực phê phán đã diễn ra ở Việt Nam.

Cuối cùng thì Chí Phèo của Nam Cao cũng được thoát ra khỏi chiều ca ngợi để đối thoại với chiều đa diện, một bước tiến và vinh dự lớn dành cho anh Chí năm nào, vốn chỉ được “nuông chiều” trong cái làng nhỏ cũ kĩ. Cuộc sắp xếp và thử sức vĩ đại này có thể sẽ mang tên tuổi Nam Cao đi xa, bay cao hơn cả những đỉnh cao mà người ta nghĩ, hoặc trở về với “một sự thật khác” của giá trị. Đằng nào cũng rất tốt đẹp cho các bên tranh luận, vì Sự thật vẫn là thứ có đời sống trường cửu, hơn mọi sự vinh danh ngọt ngào.

 LÊ THỊ THANH TÂM
Nguồn: VietNamNet



CUỘC ĐỜI LẬN ĐẬN CỦA THI SĨ TÀI HOA NGUYỄN TẤT NHIÊN

Có thể nói, cuộc đời ngắn ngủi của một hồn thơ độc đáo và khác thường nhất trong nhịp thở chung của thi ca, văn chương miền Nam những ngày tháng đau thương đã đưa Nguyễn Tất Nhiên trở thành một hiện tượng đến giờ vẫn còn sống mãi trong lòng nhiều thế hệ người đọc.
Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên

Có lẽ bàn luận về giá trị của mỗi thi phẩm mang tên Nguyễn Tất Nhiên sẽ không bao giờ là đủ và khiến những người yêu mến tiếng thơ ấy có cảm giác thỏa mãn trọn vẹn. Trong con người tinh hoa phát tiết ra ngoài này, có những điều mà sau khi những giá trị cũ vừa được khai phá, người ta sẽ lại bắt gặp những ám ảnh mới nặng trĩu trên vai cần phải được tiếp tục đào xới. Dễ dàng nhận thấy, những bài viết đi vào đời sống riêng của Nguyễn Tất Nhiên đều luôn đề cập đến một bóng hồng đã quật ngã hồn thơ, tình thơ và cuộc đời tuổi trẻ của ông là cô Bắc kỳ nho nhỏ tên Duyên. Tuy nhiên, ít ai biết, ngoài Duyên - mối tình hoa mộng đầy buốt giá ấy, Nguyễn Tất Nhiên còn gửi cảm hứng của mình vào một người con gái khác mà ông cũng tha thiết yêu bằng cả trái tim là Nguyễn Thị Minh Thủy.

"Vết thương hành liệt tim"

Cái bi thiết của một người nuôi nhiều mơ mộng nhưng thực tế lại mênh mông những bóng tối thẳm sầu. Cuộc sống như trải dài từ những nợ này đến nợ khác để thi sĩ phải tự than thân. Ta mấy kiếm vẫn là ta mắc nợ. Nợ tình, nợ đời, thành những câu thơ bi thiết, thành những tâm tình đầy dằn vặt thảm thê. Trong tập thơ Thiên tai, không chỉ dành những ý từ hay nhất cho người con gái tên Duyên, Nguyễn Tất Nhiên còn dành sự ngưỡng mộ và tình cảm thiêng liêng đầu đời của mình cho người bạn cùng trường Nguyễn Thị Minh Thủy. Dù bà không đẹp kiều diễm, kiêu sa như Bùi Thị Duyên nhưng lại nền nã, hài hòa, dịu dàng và đặc biệt bà là cô gái học giỏi nhất trường khi ấy. Đã biết chắc tình yêu mình dành cho Duyên là vô vọng, nhà thơ si tình tỏ ra săn đón Minh Thủy nhiều hơn.

Không từ chối tình yêu của chàng thi sĩ một cách nghiệt ngã như Bùi Thị Duyên, Minh Thủy dè dặt đón nhận tình cảm của Nguyễn Tất Nhiên một cách kín đáo. Cứ mỗi khi tan trường, đi cạnh bạn học, chỉ cần nhác thấy chiếc xe Honda của Nguyễn Tất Nhiên lạng lại từ xa là Minh Thủy vội đẩy bạn học ra ngoài, còn mình đi bên trong để tránh tiếp xúc với chàng nhà thơ. Những lần như thế, quà cáp và thư từ của Nguyễn Tất Nhiên đều được gửi cho người con gái anh thầm thương trộm nhớ đều được cô bạn thân nhận giúp. Sau này, có lần bà Minh Thủy hồi tưởng lại những ngày đầy hoa mộng: "Có lần anh ấy dúi vào tay bạn tôi một cái bọc và nói trước khi phóng xe đi: "Thuốc bổ óc đó, một cho Dung (tên bạn tôi) và một cho Thủy, ráng thức để mà học thi. Tôi cũng cảm động, vui vui một chút. Anh chàng làm thơ mà cũng biết điệu đó chứ.

Nhưng khi hiện tượng Nhiên - Duyên đình đám khắp cả trường, cả miền Nam, Minh Thủy cũng rất dè chừng và cẩn thận. Sau đó, bà gom hết thư từ, quà cáp của Nguyễn Tất Nhiên tặng mang sang đưa cho cô bạn thân nhờ gửi trả lại cho ông. Sự kiện đó đã làm cho nhà thơ vốn yếu đuối lại càng thêm chấn động tâm lý. Ngay lập tức Nguyễn Tất Nhiên cho ra đời bài thơ Kẻ tự đóng đinh tim như một cách trách móc người tình trong mộng: “Chiều em đi học về, chim trắng bước/ Ngang giáo đường nhòe nhoẹt nước vô phai/ Có động lòng xin hãy rút khăn tay/ Lau mắt giùm kẻ xương bày như tháng giá/ Là ta đó em ơi, đang tầm tã/ Mưa đầy hồn, đau đớn, thương thân”.

Cũng là hờn trách nhưng những ngôn từ mà Nguyễn Tất Nhiên dành cho Nguyễn Thị Minh Thủy nhẹ nhàng, đằm thắm hơn chứ không phẫn uất như đối với Bùi Thị Duyên. Có thể nói, những bài thơ viết dành cho người tình thứ hai tình tứ, cảm động hơn dù chuyện tình này không ồn ào như với Bùi Thị Duyên.

Khi lên đại học, Minh Thủy và Nguyễn Tất Nhiên đã không còn nhiều cơ hội gặp nhau. Nhưng, thỉnh thoảng trên báo, ông vẫn gửi thơ đều đặn cho bà. Đến năm 1975, miền Nam giải phóng đã vô tình đẩy Minh Thủy và Tất Nhiên gặp lại nhau ở tại quê hương Biên Hòa. Sự bình lặng của thời kỳ đầu giải phóng đã khiến trái tim một thi nhân điên tình, say tình như Nguyễn Tất Nhiên ngủ yên và bình lặng. Nó đã làm nguội sự bốc đồng của một chàng trai trẻ một thời. Hai người đến với nhau thanh thản, hiểu đời hơn và tình yêu từ đó cũng được hồi sinh trở lại.

Năm 1978, hai người chính thức làm đám cưới. Với một tâm hồn quá nhạy cảm, thậm chí hơi khác thường khi chuyển từ vị trí người tình thành chồng, ông vẫn có những dự cảm báo hiệu cuộc tình sẽ không bền lâu và ông không xứng đáng với sự hiền ngoan, dịu dàng của người đàn bà mang tên Minh Thủy. Cuộc sống hôn nhân, chồng vợ của họ không hạnh phúc, viên mãn, chủ yếu xuất phát từ tính nết hoang đàng cố hữu của Nguyễn Tất Nhiên như ông khẳng định là nhẫn nhục cưu mang đời vợ chồng. Dù đã có với nhau hai con trai nhưng hai người vẫn thường xuyên có những cuộc di cư, tìm kiếm chỗ trốn bình yên cho tinh thần. Đến năm 1992, trong một lần dẫn hai con trai đi xa như thế, bà bàng hoàng nghe tin chồng của mình đã tự sát.

"Ngày ta buồn thần thánh cũng thôi linh”

Hai vợ chồng Nguyễn Tất Nhiên và Nguyễn Thị Minh Thủy di cư sang Mỹ từ năm 1978. Khi thành vợ, thành chồng rồi hai người ly thân, Nguyễn Tất Nhiên vô cùng buồn bã (vì phải xa vợ và hai con trai nhỏ) mang đời sống tinh thần của một kẻ có số phận không may. Những bài thơ chia ly, nhớ thương và cả những niềm ăn năn, day dứt đã thể hiện sự não lòng buốt trong tim, trong óc của thi sĩ lừng danh một thời.

“Đường không gian - đã phân ly/ Đường thời gian đã một đi không về/ Những con đường mịt sương che/ Tôi vô định lái chiếc xe mù đời”.

Chiếc xe, có lẽ là nơi chốn an toàn nhất đối với Nguyễn Tất Nhiên khi đó để ông lựa chọn làm nơi trút hơi thở cuối cùng rồi chìm vào cõi miên viễn. Nơi đó, trong một phút thảng thốt nhìn lại những ngày quá khứ, hoài niệm xa xăm để nhớ vợ, nhớ con da diết. Cũng chiếc xe ấy khi trước là chung đường, chung đôi mà giờ thì chia đời vạn dặm. Ông từ giã cõi đời lúc 14h30’ ngày 03/08/1992 khi tròn 40 tuổi bằng cách tự uống thuốc ngủ. Trong chiếc xe Toyota cũ nát rải đầy hoa vẫn còn một bài thơ mới sáng tác có chữ ký của ông cài nơi túi áo.

Chính vợ ông bà Minh Thủy cũng không thể tin được Nguyễn Tất Nhiên lại chọn cách ra đi mãi mãi để chấm dứt đời sống trần thế cay đắng, khổ nhọc ấy. Cho đến bây giờ, bà vẫn cứ tự trách mình như trong những vần thơ đau đời một thuở của người chồng quá cố: "Chính vì em mà thiên tài chán sống. Nguyễn Tất Nhiên của tài hoa, khí chất, của mộng mơ, sầu khổ, dịu dàng khi cuối đời với bộ quần áo nhàu nát cùng gương mặt tóc râu bờm xờm ấy, người khách phong sương muôn thuở, yêu sóng cả sông dài, yêu trời cao, biển rộng đã có một cuộc viễn du, đi mãi không trở lại đời sống trần tục này.

Sự bộc phát như định mệnh không thể ngờ trước khi tập thơ Thiên tai ra đời năm 1970 lúc Nguyễn Tất Nhiên vừa tròn 17 tuổi đã hóa thân ông từ một lãng tử trở thành một thần tượng của tất cả giới trẻ Sài Gòn và được coi như một thiên tài của thi ca đổi mới. Với thứ ngôn ngữ lấp lánh tỏa ra từ những trang thơ, ông khiến những nhạc sĩ tài hoa nhất như Phạm Duy, Anh Bằng cũng phải mượn thơ ông để trút hồn vào đó. Tài hoa một cách kỳ diệu trên sáng tác, một cách ngông nghênh của thi sĩ và cái nhìn tình yêu bằng đôi mắt tuyệt vọng, điêu tàn, Nguyễn Tất Nhiên đã để lại cho đời một di sản thơ ca khác biệt và đầy ám ảnh. Cuộc đời ông ngắn ngủi và tăm tối trải dài từ khi sinh ra cho tới khi giã biệt cuộc đời, phải chăng cũng là một sự trớ trêu của số phận khi để người tinh hoa phát tiết ra ngoài như ông phải hứng chịu mọi đày ải của kiếp nhân gian quạnh quẽ, cô độc.

HƯƠNG GIANG
Nguồn: NGƯỜI ĐƯA TIN

Thứ Sáu, 21 tháng 9, 2018

MỘT NHÀ VĂN VỚI NỖI KHÁT KHAO SÁNG TẠO

Nhà văn Nguyên Ngọc

Người ta đi đến một nhận biết
                                                      về lịch sử của thời đại mình
                                         từng bước, và chỉ từng bước.
                                                                                          Hégels

1. Nguyên Ngọc tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh ngày 5.9.1932 tại Thăng Uyên, Thăng Bình, Quảng Nam. Ngoài bút danh Nguyên Ngọc, ông còn có các bút danh Nguyễn Trung Thành (dành cho các tác phẩm văn học giải phóng), Nguyễn Kim (dành cho các bài báo). Thuở nhỏ học ở Hội An, kháng chiến toàn quốc bùng nổ (1946), ông theo gia đình ra vùng tự do, tiếp tục học trường trung học kháng chiến Lê Khiết ở Quảng Ngãi. Năm 1950, ông nhập ngũ và sau khi tốt nghiệp trường lục quân Liên khu Năm, ông ở đơn vị chiến đấu một thời gian rồi chuyển về làm phóng viên báo Quân đội nhân dân Liên khu Năm, hoạt động ở chiến trường Tây Nguyên. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc trong đội hình của sư đoàn 324, được điều về trại viết gương anh hùng của Tổng cục chính trị. Chính thời gian này ông viết tiểu thuyết đầu tay Đất nước đứng lên (1955),và lập tức đạt ngay giải nhất về tiểu thuyết của Hội Văn nghệ Việt Nam (1954-1955). Đây là tác phẩm đánh dấu quan trọng trên bước đường hiện đại hóa của tiểu thuyết Việt Nam trong việc phản ánh và ngợi ca cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc. Cuốn sách là sự mở đầu vang dội, vừa ra đời đã có tiếng vang trong đời sống văn học và cũng từ đây hình thành lối viết của Nguyên Ngọc theo kiểu Nguyên Ngọc. Lối viết này quán xuyến toàn bộ cuộc đời cầm bút của ông. Đó là viết về những con người có thật trong cuộc sống và chiến đấu anh hùng của nhân dân.

Đầu năm 1957, tạp chí Văn nghệ quân đội thành lập, ông là thành viên ban biên tập đầu tiên, sau này có thời gian ông làm thư ký tòa soạn. Tháng 5.1962, ông trở lại chiến trường Liên khu Năm, có lúc cắm sâu về làm cán bộ xã, từng làm Bí thư Đảng đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn nghệ giải phóng Trung Trung Bộ, Trưởng ban văn học thuộc Tổng cục chính trị quân khu, phụ trách tờ Văn nghệ Giải phóng Trung Trung Bộ. Sau ngày thống nhất đất nước 1975, ông quay về công tác ở tạp chí Văn nghệ quân đội. Năm 1979, ông được bầu bổ sung vào Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa II, được cử làm Phó Tổng thư ký kiêm Bí thư Đảng đoàn. Sau đó tiếp tục được bầu vào Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III và khóa IV, làm Tổng biên tập báo Văn nghệ, đại biểu Quốc hội khóa VIISau khi nghỉ hưu, ông là thành viên sáng lập và làm Chủ tịch Hội đồng quản trị trường Đại học Phan Châu Trinh (Hội An), và hiện nay, khi tuổi đã ngoài tám mươi, ông vẫn còn phụ trách Viện Phan Châu Trinh.

Trên một hành trình hơn sáu mươi năm đánh vật với từng con chữ, đó là chặng đường dài chi chít dấu chân người lính hơn là nhà văn, tất nhiên, trong đó có sự song hành cùng với những cột mốc văn chương cắm sâu trong dòng chảy của dòng sông cuộc đời. Thời gian làm lính, làm công tác cách mạng nhiều hơn là thời gian chăm chuốt cho sự sinh sôi của từng con chữ. Sự nghiệp văn chương thuộc nhiều thể loại của ông quả là không nhiều, nhưng cũng không quá ít ỏi, chỉ xếp vào hàng “thường thường bậc trung” về mặt số lượng: Đất nước đứng lên (tiểu thuyết, 1955), Mạch nước ngầm (truyện vừa, 1960), Rẻo cao (truyện ngắn, 1961), Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (truyện và ký, 1969), Rừng xà nu (truyện và ký, 1969), Đất Quảng (tiểu thuyết, tập 1,1971, tập 2, mới trích in một vài chương trên báo 1974)), Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ (dịch của Xvetlana Alêchxiêvich, 1987), Tháng Ninh Nông (truyện và ký, 1999), Văn học là gì? (dịch của J.P.Sartre, 1999), Nghệ thuật tiểu thuyết (dịch của Milan Kundera, 1999), Nghĩ dọc đường (ký, 2003), Tản mạn nhớ và quên (ký, 2005). Chính nhà văn cũng đã từng thừa nhận là những gì mà ông và cả thế hệ nhà văn như ông làm được còn quá ít, nhưng đã kịp khắc họa chân dung một kiểu nhà văn trong lịch sử chưa từng có và trong tương lai cũng không hề lặp lại: nhà văn – chiến sĩ. Đó cũng là bước chuyển quan trọng trong lịch sử văn học, từ nhà văn – nho sĩ trở thành nhà văn – chiến sĩ. Nhiều người trong số họ đã hy sinh trên chiến trường: “Có lẽ điều quan trọng không phải là họ đã ngã xuống. Điều quan trọng hơn nhiều là họ đã sống và làm việc như thế nào giữa nhân dân trên chiến trường những tháng năm ấy. Có những người sẽ chẳng còn có tên tuổi gì trong nền văn học vinh quang chúng ta, hoặc giả có người sẽ chỉ còn để lại một cái tên mờ mờ trên trang sách lịch sử văn học chiến tranh giải phóng con em ta sẽ học. Nhưng một nền văn học là gồm những tác phẩm, ưu tú và chưa thật ưu tú, đã đành. Một nền văn học còn là một kiểu nhà văn. Mà đó mới là cái gốc. Kiểu nhà văn nào thì tạo ra nền văn học ấy, với những tác phẩm ấy. Có thể nên suy nghĩ vậy chăng về sự đóng góp của văn học chiến tranh chống Mỹ ở miền Nam vào sự nghiệp xây dựng nền văn học mới hiện đại của tổ quốc ta” [1, tr.65]. Chính cuộc “sống và làm việc như thế nào giữa nhân dân trên chiến trường” mới là điều quan trọng căn cốt, là cốt lõi khẳng định thái độ sống và quan điểm sáng tác của tác giả. Cũng chính từ đó đã tạo nên “cái gốc” của một nền văn học, đó là chủ thể sáng tạo, một kiểu nhà văn. Một kiểu nhà văn được tạo nên bởi một quan niệm về văn học. Văn học đối với họ không phải là “trò chơi vô tăm tích” [2, tr.316] như thế hệ các nhà văn thời kỳ đổi mới kiểu như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài từng quan niệm, mà văn học là vũ khí chiến đấu, bởi vì kẻ thù luôn dùng tiếng nói của vũ khí để lấn át tiếng hát tiếng cười, đè bẹp sự sống của chúng ta, thì ta phải sử dụng “vũ khí tiếng nói’ để đáp trả kẻ thù [3, tr.118], nghĩa là phải trui rèn sức mạnh tinh thần trở thành một lực lượng vật chất, xếp hàng trong đội ngũ ra trận tiến công kẻ thù… Trong một tiểu luận khác, từ góc nhìn chủ thể sáng tạo thấm sâu từ tâm thức sáng tạo hiện đại là Viết như một phép ứng xử, Phạm Thị Hoài chỉn chu hơn khi khẳng định bản chất của sáng tạo là đem lại giá trị nghệ thuật và thừa nhận bài học đó được rút từ thế hệ đi trước: “ Nhiều nhà văn Việt Nam lớp trước đã trả giá đắt để chúng tôi, những người đến sau, có thể học được điều lớn nhất là: không nên viết như thế nào” [4, tr.333]. Phép ứng xử của Nguyên Ngọc và nhiều nhà văn cùng thời là văn hóa ứng xử của một người yêu nước, khi đất nước có ngoại xâm, người có văn hóa là người phải chiến đấu chống ngoại xâm, thậm chí dẫu phải hy sinh cả tính mạng vì sự tồn vong của đất nước, cái giá phải trả dù phải đắt gấp bao nhiêu nữa cũng phải chấp nhận. Cũng chính quan niệm nghệ thuật ấy đã làm nên sự / sức sống cho tác phẩm nghệ thuật, tạo ra những sinh thể nghệ thuật tồn tại lâu bền trong tâm tưởng nhiều thế hệ người đọc. Không dừng lại ở quan điểm nhận thức, cây bút văn xuôi tài danh Nguyên Ngọc còn ý thức rất rõ và từng lý giải một cách cặn kẻ về mối quan hệ giữa ý thức về cuộc sống và cuộc sống đã được ý thức / thế giới cuộc sống và thế giới nghệ thuật, đồng thời nhấn mạnh đặc trưng ma thuật của thể loại chủ lực của nền văn học là tiểu thuyết, coi nhà tiểu thuyết giống như người làm ảo thuật: “Thế giới, tức cuộc sống, cũng giống như trái đất vậy, vốn cong và nối liền, gồ ghề, lởm chởm, quanh co, phức tạp, là không gian ba chiều (thậm chí dường như ta còn có thể cảm nhận ra những chiều nào đó khác nữa, sâu xa, tinh tế, bí ẩn, được cuộn lại ở đâu đó) nhưng cũng giống như trái đất được vẽ lại trên tấm bản đồ, nó được chiếu trên trang giấy phẳng chỉ có hai chiều của nhà văn bằng những dòng chữ tuyến tính và lại thường xuyên đứt đoạn. Vì vậy, nhà tiểu thuyết là một kiểu nhà ảo thuật, ông ta biểu diễn trên một mặt phẳng hai chiều đơn giản, trắng trơn và nhạt nhẽo cái thế giới ba hay hàng chục chiều vô cùng phức tạp kia, làm cho nó hiển hiện lên, còn sống động hơn (vì tích tụ, cô đọng hơn) chính cuộc sống thật nữa. Công cụ ma thuật duy nhất của ông không có gì khác hơn là các từ. Cho nên ngôn ngữ trong văn học vừa thoạt trông cũng giống như ngôn ngữ bình thường ta vẫn nói vẫn nghe hàng ngày, lại vừa không phải là ngôn ngữ ấy, mà là một thứ mã riêng của nhà văn, thậm chí mỗi nhà văn đều phải tạo ra một thứ mã riêng của mình, để có thể thực hiện cái trò ảo thuật kỳ lạ và kỳ diệu: sáng tạo ra một thế giới nữa bên cạnh, thêm vào cái thế giới đã có này” [4, tr.40]. Thế giới nghệ thuật của Nguyên Ngọc được làm nên bởi mịt mù khói lửa chiến tranh, khi hiển hiện trước mắt, khi lắng lại trĩu nặng suy tư, giằn vặt, cào xé, nghiệm sinh trên cả quãng đường dài, đúc kết thành những tư tưởng – nghệ thuật và cả nảy sinh thành hành động / hoạt động của một nhân cách, mang ý nghĩa văn hóa nhân văn.

Là nhà văn sinh ra và trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, Nguyên Ngọc xuất hiện và khẳng định tròn vai với nhiều tư cách: người lính – người cán bộ cách mạng, nhà báo – nhà văn, nhà văn hóa - nhà dịch thuật, trong nhiều mối quan hệ tích hợp và cộng sinh với nhau, trong đó nổi bật, hoàn chỉnh và đậm màu là chân dung nhà văn và nhà hoạt động văn hóa.

2. Nhà văn Nguyên Ngọc được khẳng định đầu tiên và nổi trội là nhà tiểu thuyết, tác giả của Đất nước đứng lên và Đất Quảng. Cơ duyên dẫn dắt ông đến với văn chương, để có tiểu thuyết đầu tay đạt giải nhất, đối với ông là một may mắn: “Được sống ở Tây Nguyên thời chiến tranh là may mắn lớn nhất đời tôi. Không có cuộc gặp gỡ với mảnh đất ấy, chắc tôi không bao giờ trở thành nhà văn”[6, tr.216]. Phải đến năm năm, là khoảng thời gian ông “đã sống trong các làng của đồng bào Êđê, được cùng đồng bào đi làm rẫy làm nương, đi săn, đi bắt cá, cùng ăn cùng ở, cùng bàn bạc công tác, cùng đánh du kích, cùng dự các ngày vui và được nghe đồng bào kể các sự tích về rừng núi sông suối, về truyền thống bất khuất lâu đời của dân tộc” [7, tr.215]. Những trải nghiệm trầm tích, lắng đọng trong tâm hồn ông lâu ngày chờ khi kết tủa để thăng hoa. Đến “năm 1953, Nguyên Ngọc được gặp anh hùng Núp ở Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua Liên khu Năm. Cuộc gặp gỡ đó ghi dấu ấn khá mạnh vào tình cảm, và khơi nguồn cho cảm hứng sáng tác của Nguyên Ngọc. Tất cả vốn sống của nhà văn trước đây còn tản mạn, sau khi gặp Núp, dường như được quy về một điểm. Nhân vật chính đã được xác định. Mọi kỷ niệm, mọi ấn tượng trong anh sẽ trở về xoay quanh hình tượng trung tâm và tìm được vị trí thích hợp cho nó. Ánh sáng không loãng tan ra mà tụ lại quanh một con người. Nhưng do vậy mà toàn cảnh bức tranh càng sáng rõ” [8, tr.143]. Cuốn tiểu thuyết có 11 chương, chia làm 3 phần. Phần 1 viết về cuộc chiến đấu chống Pháp của nhân dân làng Kông Hoa trước Cách mạng. Phần 2 viết về cuộc chiến đấu từ sau Cách mạng tháng Tám đến đầu những năm 1950. Phần 3 viết về giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến cho đến khi làng Kông Hoa tiễn người con yêu dấu của họ tập kết ra miền Bắc. Truyện xoay quanh đoạn đời của một nhân vật có thật là anh hùng Đinh Núp – người mà Nguyên Ngọc được phân công ghi chép giúp thành tích để báo cáo tại Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua Liên khu Năm. Là truyện viết về người thật, nhưng tác phẩm đã vượt hẳn và chuyển sang một chất lượng mới khác với loại truyện kiểu này cùng thời và cả sau này. Nếu Nguyễn Tuân tài hoa là nhà duy mỹ, người suốt đời đi tìm cái đẹp, thì Nguyên Ngọc tài danh xuất thân là người lính nên suốt đời soi ngòi bút săn tìm những sự tích / tính cách anh hùng. Thật ra trong suốt hai cuộc kháng chiến, nền văn học chiến tranh của chúng ta đều tập trung vào đối tượng ấy, và đã có không ít người gặt hái được những thành công. Nhưng người anh hùng trong văn chương Nguyên Ngọc vẫn có những nét riêng, tuy vẫn được xây dựng bằng thủ pháp huyền thoại hóa nhưng vẫn xen lẫn yếu tố phi huyền thoại hóa, “dù được xây dựng theo cách nhìn sử thi, vẫn có sức sống riêng bởi cách thể hiện sinh động của tác giả” [9, tr.290]. Đó là những con người thép, thẳng băng nhọn hoắt, như mũi chông ngọn giáo, như mầm xà nu đâm thẳng lên trời, nhưng lại có vẻ gì đó hồn nhiên, hoang dại. Trái tim họ chất chứa căm thù ngùn ngụt, nhưng tâm hồn trong suốt như ngọc và hết sức hồn nhiên có tính chất bản năng như thuở ấu thơ xa xăm của nhân loại. Vì vậy, nếu nói Nguyên Ngọc đến với Tây Nguyên như cái duyên, vừa là ngẫu nhiên, lại vừa là tất yếu. Con người và tính cách, nhân cách và bút lực như Nguyên Ngọc nhất thiết phải tìm đến những vùng đất dữ, có tính chất sử thi, để gặp những người như Đinh Núp, để nhận ra “ở đồng chí Núp tôi thấy tiêu biểu cho tất cả những điều tôi được biết trước nay về Tây Nguyên, tiêu biểu cho Tây Nguyên bất khuất và hết sức anh dũng” [10, tr.69]. Và, những Bok Pa, Ghíp, Xíp, Tim (Đất nước đứng lên); rồi về sau với những Tnú, cụ Mết, cô Mai, cô Dít (Rừng xà nu), cũng như nhất thiết phải tìm Hà Giang, Mèo Vạc để gặp những ông Cắm, Ykơbin, Vàng Thị Mỹ (Rẻo cao), và rồi xuôi về đồng bằng miền Nam đang sục sôi máu lửa để cùng đồng cam cộng khổ với những ông già sông Trúc, cô Thắm, cô Vi, cô Vân, cháu Thắm (Đất Quảng) và sống Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Nhìn lướt qua hệ thống nhân vật mà nhà văn yêu quý, hầu hết đều là người già, trẻ em và nhất là phụ nữ - những con người đối lập với dữ dội của chiến tranh, yếu đuối nhưng rất kiên cường, thách thức mọi sự dã man, tàn bạo và sức mạnh sắt thép của kẻ thù. Chẳng thế, mà sau này, khi đất nước hòa bình, trong xu thế giao lưu và hội nhập với văn chương thế giới, ông đã chọn dịch Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ (1987) của Xvetlana Alêchxiêvich.

Đất Quảng (phần 1) là tiểu thuyết Nguyên Ngọc tập trung miêu tả về tính chất ác liệt trong cuộc chiến đấu của nhân dân Quảng Nam trong một thời điểm nóng bỏng nhất vào đầu những năm bảy mươi, chủ yếu là khai thác các mối xung đột dân tộc, giai cấp, trong đó có cả mối thù truyền kiếp giữa hai gia tộc: một bên là ba đời cha truyền con nối của các tên ác ôn Hứa Phùng, Hứa Xâng, Hứa Min với vũ khí hiện đại của Mỹ và một bên là bố con Thắm với các chiến sĩ du kích và nhân dân xã Hòa Thanh. Thành công lớn nhất của tiểu thuyết này là tác giả dựng được bầu không khí quyết liệt, căng thẳng, lúc nào cũng tưởng chừng như sắp nổ. Hằn nổi lên giữa từng câu chữ, trong từng trang sách là ý chí bất khuất của nhân dân miền Nam trong cuộc chiến đấu bảo vệ nền đọc lập của tổ quốc, tiêu diệt những kẻ đã gây nên tội ác man rợ cho nhân dân. Đồng thời còn khắc họa được chân dung nhân vật phản diện khá sắc nét, đến mức cha con Hứa Xâng, Hứa Min khi bắt được Quế, chồng Thắm bí thư chi bộ xã, đã cắt tiết người chiến sĩ trung kiên này rồi cả hai cha con hắn cùng uống! Cuối tác phẩm là cái chết bi hùng của bé Thắm và sự phản bội của mụ gián điệp tên là Tám, đã dồn nén mâu thuẫn, chuẩn bị cho những cơn dông có nhiều sấm chớp và đẩy kịch tính đến mức cao trào, mở ra chiều hướng phát triển ngày càng phức tạp, đưa tính cách vận động ngày càng sắc nét. Tiếc thay, phần 2 còn dở dang, chỉ mới công bố một số chương trên Văn nghệ giải phóng và báo Văn nghệ cách đây gần tròn nửa thế kỷ (1974), đến nay chưa thấy tác giả trở lại vấn đề này. Phan Tứ từng cho rằng, Nguyên Ngọc “khó viết tập 2, có lẽ vì tính cach của các nhân vật đã được bày ra hết ở tập 1 rôi. Nếu viết tập 2 thì đó chỉ là ký, là nói thêm sự việc thôi” [11, tr.207]. Bất luận vì lý do gì, thì việc Đât Quảng dỡ dang vẫn là điều đáng tiếc và là nhược điểm lớn nhất trong cuộc đời cầm bút của Nguyên Ngọc.

Truyện vừa có dung lượng tiểu thuyết Mạch nước ngầm (1960) in chung cùng với  Ngõ ngang xóm thợ của Võ Huy Tâm, từng gây xôn xao dư luận, trong đó có cả những qui chụp về lập trường tư tưởng, bởi ngay từ thời điểm miền Bắc bắt đầu kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960-1965), thông qua cuộc đấu tranh tư tưởng giữa hai nhân vật chính là Quả và Thuyết, tác giả đã chỉ ra những tư tưởng hoang mang, dao động, mất đoàn kết nội bộ, thái độ mất tin cậy lẫn nhau diễn ra trong một đơn vị bộ đội miền Nam đang xây dựng trên công trường xây dựng thủy nông. Thực chất, đó là bước đột phá đổi mới trong tâm thức sáng tạo, chỉ ra những eo sèo, những “mạch nước ngầm” đen ngòm trong đời sống lúc nào cũng có, chỉ trong điều kiện nào nó mới bột lộ ra thôi, qua đó nhà văn còn ướm thử những con đường ngầm cho tư duy sáng tạo nghệ thuật.

Nguyên Ngọc còn là cây bút truyện ngắn xuất sắc, tác giả của những truyện ngắn gây ấn tượng lâu bền trong lòng người đọc như Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng, Đứa con, Em gái tôi, Chiện,…trong đó có những truyện được chọn đưa vào chương trình giảng văn bậc phổ thông như Rẻo cao, Rừng xà nu. Hầu hết truyện ngắn của ông đều là những phác thảo đơn sơ về những con người có thật trong đời sống, được thể hiện bằng một nghệ thuật điêu luyện, tài hoa. Trần Đăng Khoa từng khẳng định rằng Rẻo cao là “cái truyện tài nhất trong đời văn Nguyên Ngọc” [12, tr.6]. Truyện không có cốt, tóm tắt rất nhạt. Vì nó chẳng có gì cả. Chỉ có một nhân vật. Tác giả kể về một ông già người Mèo tên là Cắm. Ông bỏ nhà đi hoạt động cách mạng, mải việc nước đến quên cả lấy vợ. Về già, không còn đủ sức đi nữa thì ông về quê, làm cách mạng ở quê. Công việc của ông là chuyển thư từ, báo Đảng xuống các làng bản. Ông không biết chữ, nên thằng cháu ruột của ông, một anh chàng bưu tá huyện đã phải đánh dấu cho ông bằng những sợi chỉ xanh, chỉ đỏ. Chỉ xanh là ông Lý A Pù. Chỉ đỏ là ông Ma Văn Keo, xóm Nà Thăn. Thế là ông cắt rừng đi ngay trong đêm. Với chất liệu như thế chỉ đủ để viết một cái tin vắn, mà tin cũng nhạt phèo, khó mà đọc được. Vậy mà với tài lập ngôn và diễn ngôn khéo léo, Nguyên Ngọc đã dựng thành một truyện ngắn đặc sắc và cuốn hút. Nhân vật cứ lừng lững đi từ trang sách ra đời sống, khiến người đọc cảm động đến chạnh lòng. Khác với Rẻo cao và hầu hết những truyện trong tập truyện ngắn cùng tên, Rừng xà nu có cốt truyện hoàn chỉnh. Nhằm tái hiện chân thực cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mỹ. Phát huy truyền thống anh hùng của cha ông thời đánh Pháp, thế hệ tiếp nối trưởng thành trong khói lửa chiến tranh, mà cái ác của kẻ thù càng man rợ và dữ dội gấp nhiều lần, những con người kiên trinh như Tnú, cụ Mết, Dít, bé Heng và đàng sau là dân làng Xoman, hiện thân của những cánh rừng xà nu bạt ngàn “nối tiếp tới chân trời”. Dù bị kẻ thù tra tấn dã man, đốt cháy cả mười đầu ngón tay để không bóp được cò súng, Tnú vẫn giữ vững ý chí kiên cường, cùng nhân dân chống giặc, với sức sống mạnh mẻ như những rừng cây xà nu bạt ngàn không thể nào tiêu diệt nổi. Một thời gian ngắn, một ngày sống với làng quê của Tnú mở ra cả một chân trời, một quãng đường dài của nhân dân và cách mạng, từ quá khứ đến tương lai, từ những đau thương lớn lao đến một cuộc đồng khởi vĩ đại “cả làng Xoman ào ào rung động, và lửa cháy khắp rừng” [13, tr.27]. Trước khi có Rừng xà nu, Nguyên Ngọc đã có truyện ngắn đầu tay cũng viết về vùng đất mà anh gắn bó máu thịt là Kỷ niệm Tây Nguyên (1957), nhưng phải đến truyện này, tác giả mới chứng tỏ được tài năng xuất sắc từ việc chọn lựa hiện thực phản ánh, tư tưởng chủ đề, đến kỹ thuật dựng truyện và ngôn từ nghệ thuật.
Truyện ngắn của Nguyên Ngọc thường sử dụng kết cấu liên tưởng, đi gần với lý thuyết liên văn bản “thời thượng” của các nhà hậu hiện đại sau này, nhưng ở đây, nhà văn chỉ sử dụng thủ pháp nghệ thuật truyền thống, có sự đan xen giữa các sự kiện, con người và cảm quan nghệ thuật của nhà văn (Rẻo cao, Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng, Pồn, Chiện) hoặc với Rừng xà nu là kết cấu đầu cuối tương ứng, mở và đóng tác phẩm cùng một chi tiết, một hình tượng rừng cây “xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tới chân trời” [14, tr.8]. Bên cạnh đó, tác giả còn ý thức rất rõ sức mạnh của các chi tiết và ngôn ngữ hình tượng, tinh tế trong phát hiện và chọn lựa những phương tiện tối ưu để tạo nên không khí truyện sinh động, tạo nên những sinh thể nghệ thuật làm lay động tâm hồn người đọc nhiều thế hệ. Hãy xem một đoạn ngắn, được quan sát tường tận, đầy ắp các chi tiết tinh tế và ngôn từ giản dị nhưng mượt mà đến ngọt lịm đầu môi cong mềm: “Thoạt đầu là một đóa hoa trắng trong sáng và trinh bạch, nở một mình giữa đám thuốc phiện còn xanh. Rồi lốm đốm những hoa trắng nở đây đó; rồi thì đột ngột, bừng nở một bông hoa tím quyến rũ lẳng lơ và yếu đuối lạ lùng. Gần đài hoa màu tím sẫm lại như ướt. Gió thổi bạt cánh hoa mong manh” [15, tr.6]. Ngôn từ văn chương Nguyên Ngọc, nhất là ở truyện ngắn, ông rất chú ý đến lối dùng từ phái sinh để tạo hương vị riêng cho chỉnh thể nghệ thuật của mình. Có thể cảm nhận được một thứ văn chương có nhung, có tuyết, có vị ngọt rất cuốn hút và hấp dẫn người đọc trong truyện ngắn Dũng cảm nói về tình cảm một cô giáo trẻ ở thủ đô lên dạy học và tự nguyện gắn bó lâu dài với những “rẻo cao” (chứ không phải vùng cao, trong cái nhìn của tác giả): “Rừng bạt ngàn chạy đến chân núi xa, là một thế giới riêng mà cô nửa tin nửa ngờ, ở đấy có những người thỉnh thoảng đến với Tuyết, như từ xa lắm, đến rồi lại đi, mất hút trong màu xanh chạy dài đến chân mây” [16, tr.36].

Không thể chuyên sâu và có những đóng góp xuất sắc như các cây đại thụ Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhưng ký của Nguyên Ngọc vẫn có vị trí riêng, ngất ngưỡng trong văn học giải phóng miền Nam. Vốn coi văn chương là lẽ sống, một cách thế nhập cuộc và thành tâm khao khát bằng ngòi bút có thể góp sức vào cuộc “đấu tranh vì quyền sống của cả dân tộc”, ký của ông là vũ khí đánh giặc, gồm các tiểu loại như ký sự (Đất lửa), bút ký (Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, Người dũng sĩ dưới chân núi Chưpông, Chị Thuận, Cát cháy), tùy bút (Đường chúng ta đi, Trận đánh bắt đầu từ hôm nay), và tản văn (Tản mạn nhớ và quên, Nghĩ trên đường)… Ký là thể văn phản ánh trực tiếp cái đang diễn ra, đang vận động, những sự kiện và con người có thực trong đời sống, vừa có khả năng đáp ứng những yêu cầu bức thiết có tính chất kịp thời vừa giữ được âm vang xa rộng, sâu sắc của nghệ thuật. Với Nguyên Ngọc, đó là những người anh hùng, mang nặng nợ nước thù nhà, cùng gắn bó chặt chẽ với đồng chí, đồng bào. Mỗi người đều là kết tinh của truyền thống cao quý của dân tộc và văn hóa nhân văn của thời đại. Đó là bảy chiến sĩ dũng cảm Trong giếng cạn, hoặc Kơlơng, Người dũng sĩ dưới chân núi Chưpông. Đó còn là người chiến sĩ diệt xe tăng địch Lê Văn Nghiêu hoặc là những chị Thanh, anh Hạ, cô Liền, anh Hoành, cô Định, mẹ Lúa…những người dân bình thường đã vượt qua đau thương gian khổ để lập nên những chiến công.

Nguyên Ngọc đã sớm nhận ra trong sự vận động của văn học, ký không tự bó mình trong những tiêu chí của thể loại, mà có thể tự phá vỡ khuôn khổ, trong yêu cầu xâm nhập thể loại, vận động và chuyển hóa. Do đó, ký của ông luôn thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khả năng miêu tả và bình luận, tự sự và trữ tình. Ông tạo chiều sâu trên nhiều bình diện, tạo nhiều mối quan hệ và rung động thẩm mỹ. Trong ký trữ tình, đặc biệt ở những thiên tùy bút hiện thực luôn được bình giá, phân tích, cảm thụ. Viết tùy bút dường như Nguyên Ngọc không nhằm thông tin sự thật mà là thông tin tâm trạng. Đến với Đường chúng ta đi và Trận đánh bắt đầu từ hôm nay, người đọc cảm nhận rằng, sự thật chỉ là cái cớ để chủ thể bộc lộ nội tâm, là “cái đinh” để móc treo lên bức tranh tình cảm của chính nhà văn. Sự thật mà ông đưa vào các tác phẩm này rất ít ỏi và tản mạn, chủ yếu là ông dùng liên tưởng và tưởng tượng để dẫn dắt người đọc đi rất xa trong không gian và thời gian. Tuy không nói nhiều về sự việc và chất liệu cụ thể của đời sống nhưng lại gây cảm xúc lắng sâu về tâm tưởng. Đường chúng ta đi là một tuyệt bút rất hay, nếu không muốn nói là hay nhất trong văn chương chống Mỹ, miêu tả tâm trạng của người lính trước giờ xuất kich. Lòng dạt dào cảm xúc khi lắng nghe và khám phá chiều sâu thăm thẳm của một điệu dân ca, nghe tiếng hát như nghe tiếng ngân nga của mặt đất, của dòng sông, của thôn xóm, ruộng đồng: “Một giọng hát dân ca, ngân nga bát ngát như cánh cò trên đồng lúa miền Nam chạy tới chân trời, có lúc rụt rè e thẹn như khóe mắt người yêu mới gặp, có lúc tinh nghịch, duyên dáng như đôi chân nhỏ thoăn thoắt gánh lúa chạy trên con đường làng trộn lẫn bóng tre và bóng nắng” [17, tr.31]. Một thứ văn xuôi khi đọc lên  ngân nga như thơ, và có lẽ cả khi hát lên nghe như nhạc. Với cảm quan hiện thực của mình, Anh Đức hoặc Phan Tứ luôn có ý thức cắm sâu vào trang văn những chi tiết chân thực đến lạnh lùng để biểu hiện cuộc sống với tất cả vẻ ghồ ghề, gai góc của nó, thì trái lại Nguyên Ngọc thường ngước nhìn những chi tiết giàu chất thơ, có khả năng lay động tâm hồn ông một cách mạnh mẽ. Vì thế, cảnh vật, con người và cuộc sống trong trang văn của ông bao giờ cũng đẹp một vẻ đẹp huyền ảo, sáng trong nhờ được lọc qua tâm hồn như một khối kim cương trong suốt của nhà văn, nó mang màu sắc lãng mạn, làm cho người đọc say sưa, ngây ngất: “Chúng tôi đóng ở trong làng. Bây giờ đã khuya, bốn bề im lặng. Cho đến ngôi sao sa ngoài khung cửa cũng đứng im, lóng lánh như giọt nước mắt vui lặng lẽ của người vợ ở quê ta gặp chồng sau mười năm trời gian lao và cách biệt. Gió se lạnh, thoang thoảng hương lúa lên đòng thơm như sữa của một người mẹ trẻ… Có gì đây đang trào dậy trong lòng tôi… như một linh cảm mơ hồ, như một hơi men say, một cơn sóng ngầm xao động ở tận chỗ sâu kín nhất của tâm hồn” [18, tr.30]. Vốn chú ý đến tính khách quan trong miêu tả, ông chọn những chi tiết sống cụ thể để cho sự việc tự nó nói lên. Ông còn đặc biệt quan tâm đến tình huống phù hợp, tạo không khí cho mạch văn thiết tha hùng tráng, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc.

Là người viết văn xuôi, Nguyên Ngọc luôn cày cấy trên cánh đồng màu mỡ, phì nhiêu của thực tế cuộc sống và chiến tranh cách mạng. Văn chương của ông vừa đậm chất văn xuôi tự sự vừa thẩm đẫm chất thơ trữ tình. Ở ông, có sự kết hợp nhuần nhị giữa hiện thực và lãng mạn, cuộc sống và lý tưởng, số phận con người và lịch sử.

3. Nhà văn hóa Nguyên Ngọc không phải đợi đến những hoạt động văn hóa từ sau ngày hòa bình thống nhất đất nước mới có, mà văn hóa, nhất là văn hóa Quảng Nam, đã ngấm vào tận xương tủy của ông từ thuở mới lọt lòng, trưởng thành cùng với nhân cách và biểu hiện qua hành vi cầm súng rồi cầm bút chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Người có văn hóa bao giờ cũng là người yêu nước và nhà văn trước hết phải là nhà văn hóa. Nhà văn là một trí thức, nhưng muốn trở thành trí thức phải có quá trình rèn luyện, hun đúc và tích lũy tri thức văn hóa, mà vốn liếng đầu tiên của nó nằm ở dưới đáy, làm nền tảng, đó là tấm lòng và thái độ ứng xử của anh đối với quốc gia, dân tộc. Người làm văn chương mà không yêu nước, thì văn chương của anh ta chỉ là đồ giả, một thứ văn chương làm dáng, rỡm đời.  

Nguyên Ngọc là người hơn sáu mươi năm cầm súng – cầm bút, tham gia vào hai cuộc kháng chiến trường chinh của dân tộc, đến khi hòa bình thống nhất tiếp tục chiến đấu cho tư tưởng đổi mới, rồi mở trường đại học, mong đào tạo một lớp người mới, bổ sung một nguồn nhân lực có đủ trình độ tri thức hiện đại và đạo đức nhân văn để dựng xây đất nước. Không kể những năm đầu khi mới nhập ngũ, trực tiếp cầm súng chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên, ngay cả những giai đoạn khó khăn khi hoạt động ở chiến trường Quảng Nam, ông đã từng trực tiếp cầm súng chiến đấu hoặc làm xã đội trưởng một xã vành đai khó khăn nhất, để có được tiểu thuyết Đất Quảng sau đó. Ông đã từng kể rằng, vào khoảng giữa năm 1965, ông về Điện Hòa (Điện Bàn), một xã vành đai trắng quanh căn cứ Đà Nẵng, gặp lúc Mỹ đang chuẩn bị càn, bí thư xã đang lúng túng chưa biết sắp xếp cho ông ở đâu, nhưng “tôi đã có kinh nghiệm những lúc như thế này. Tôi để anh bí thư đó, đi tìm anh trung đội trưởng du kích. Không tự giới thiệu gì cả (càng không nên tự xưng ngay anh là “nhà văn”. Ở đây “nhà võ” quan trọng hơn nhiều), tôi hỏi anh trung đội trưởng nọ các anh đang bố trí đánh địch như thế nào. Hai chúng tôi ngồi xổm ngay xuống đó, bên bờ sông La Thọ, dùng ngón tay vẽ luôn một cái sơ đồ ra đất. Tôi chỉ cho anh phải điều ngay một tổ du kích đánh chặn chỗ bến lội qua sông, còn hai tổ thì bám chặt đường xe lửa, cứ địa thế cao đó mà bắn khống chế không cho chúng tràn qua cánh đồng. Rồi phân công luôn: anh nắm lấy tổ chặn bờ sông đi, tôi ra chỗ đường sắt… Chiều hôm đó chúng tôi đánh lui đợt càn thủy quân lục chiến Mỹ, có thể chính là cái tụi Mỹ tôi đã chứng kiến rầm rộ đổ lên Chu Lai hai năm trước. Tối chúng tôi tập trung ở quán bà Cửu Trấu, bà mẹ của tất cả du kích, cán bộ ở đây. Bà Cửu đãi chúng tôi một bữa mì Quảng” [19, tr.69]. Bên canh đó, Tây Nguyên đối với ông không chỉ là chiến trường, mà còn là vùng văn hóa – thẩm mỹ làm nên phẩm chất con người và văn chương ông. Ông không chỉ am hiểu đến tường tận về đất và người, sông suối và núi rừng, tâm tư tình cảm và phong tục tập quán, ngôn ngữ và tiếng nói của nhiều dân tộc, mà còn có cả vốn liếng tri thức khá đồ sộ về truyền thống văn hóa lịch sử, cội nguồn của sức sống vững bền mang ý nghĩa văn hóa nhân văn. Trong ông đầy ắp cả một “rừng” văn hóa Tây Nguyên rậm rạp, và chắc chắn là chưa trang trải hết ra trên trang giấy. Trong bài viết Cuộc đời và tác phẩm Nguyên Ngọc đã nhận thức rằng: “Nói đến Tây Nguyên, người ta thường nghĩ ngay đến thiên nhiên, núi non, rừng nước, cảnh quan lạ lùng của nó. Tất nhiên, cái đó là đúng và cũng tác động đến người mới đến đây nhưng còn quan trọng hơn nhiều, theo tôi là cái nền văn hóa của nó. Các dân tộc Tây Nguyên đã cấy trồng trên đất đai núi rừng của mình một nền văn hóa lớn, cực kỳ độc đáo và đặc sắc, lâu đời và bền vững” [20, tr.91]. Trong những trang viết đặc sắc của ông về Tây Nguyên, chỉ tính riêng Đất nước đứng lên thôi, cũng có thể nhận ra, có lẽ đó là tiểu thuyết hiện đại đầu tiên viết về đất này, trước đó dường như trống vắng quá, sau đó thưa thớt mới có Bão rừng (1957) của Nguyễn Văn Xuân và các tiểu thuyết của Trung Trung Đỉnh sau này… Nhưng những gì hiển ngôn thành câu chữ, thành hình tượng sống động trên trang sách như Đất nước đứng lên, Rừng xà nu, Kỷ niệm Tây Nguyên, Tháng Ninh Nong, Tản mạn nhớ và quên… chỉ mới là một phần nhỏ trong gia sản đồ sộ trong tri thức văn hóa của ông, và không biết có nên so sánh với các nhà nghiên cứu văn hóa hay không, nhưng với riêng ông, chỉ chừng ấy cũng đủ tiêu chuẩn “phẩm hàm” để gọi ông là nhà văn hóa Tây Nguyên.

Nhưng có thể khẳng định, cái lớn hơn Nguyên Ngọc vẫn là nhà văn hóa yêu nước. [...]. Chỉ căn cứ trên bình diện thi pháp hình thức, làm một thống kê cơ học giản đơn các tiêu đề tác phẩm hay nhất của ông, ta dễ nhận ra, trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, ông luôn đau đáu về quê hương, đất nước: như một điệp khúc cứ lặp đi lặp lại với tầng số cao số vốn từ như “đất, nước” (Đất nước đứng lên, Đất Quảng, Đất lửa, Cát cháy, Rẻo cao, Mạch nước ngầm, Trong giếng cạn), “quê hương, rừng núi, đường sá” (Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, Rừng xà nu, Người dũng sĩ dưới chân núi Chưpông, Đường chúng ta đi, Đường mòn trên biển, Nghĩ trên đường)… một tư duy tập trung, một tâm thức sáng tạo được neo đậu vững chắc vào một bến bờ là dân tộc và cội nguồn văn hóa Việt không lay chuyển như ông, không thể nghi ngờ gì về tấm lòng nồng thắm với đất nước của ông.  Ngay cả cách chọn bút danh của ông cũng phần nào nói lên điều đó. Về văn học, không còn nghi ngờ gì khi lý thuyết thi pháp học đã chứng minh, tên tác phẩm, tên nhân vật thể hiện quan niệm của tác giả và có giá trị nội dung nhất định. Vậy, tên người ở ngoài đời cũng ít nhiều ứng với tính cách và số phận của người đó. Trong đời sống, tên của chúng ta là do cha mẹ đặt, đôi khi do ngẫu nhiên hoặc gắn liền với một sự việc, một biến cố nào đó. Nhưng bút danh của nhà văn là do chính nhà văn chọn lựa. Và, khi cố tìm mọi cách để xin tổ chức cho trở lại miền Nam chiến đấu, trong yêu cầu phải giữ bí mật, ông đã chọn cho mình bút danh mới mang đầy ý nghĩa là Nguyễn Trung Thành! (Hiện tượng các nhà văn vào Nam chiến đấu có hai bút danh và bút danh sau cũng nổi tiếng ngang ngửa hoặc có khi lấn át cả bút danh trước, là một hiện tượng thú vị trong văn học nước ta thời chống Mỹ: Nguyễn Văn Bổng – Trần Hiếu Minh, Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi, Bùi Đức Ái – Anh Đức, Lê Khâm – Phan Tứ, Nguyên Ngọc – Nguyễn Trung Thành, Bùi Minh Quốc – Dương Hương Ly, Dương Thị Minh Hương – Dương Thị Xuân Quý…). Người cầm bút chân chính, luôn tự hào về tên tuổi của mình. Phải từ bỏ bút danh từng nổi tiếng của mình để chọn một bút danh mới cũng là hành động yêu nước và văn hóa chọn bút danh cũng là văn hóa yêu nước.

Trong hoạt động văn hóa và tham gia lãnh đạo các tổ chức văn hóa nghệ thuật, chỉ tính riêng thời kỳ làm Phó Tổng thư ký kiêm Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam hoặc Tổng biên tập báo Văn nghệ, Nguyên Ngọc là một trong những người tiên phong trong tiến trình đổi mới tư duy trong lĩnh vực văn học nghệ thuật: “ Không phải đợi đến đại hội lần thứ VI, tháng 12 năm 1986, Đảng đề xướng công cuộc đổi mới, lý luận phê bình mới bắt đầu “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” (Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, ngày 15.12.1986), mà có lẽ đã có mầm mống từ trước, từ phát biểu Đề dẫn trong Hội nghị đảng viên Hội Nhà văn Việt Nam (diễn ra trong ba ngày 11, 12 và 13, tháng 6. 1979) của Nguyên Ngọc, từ sự lãnh đạo của Ban Văn hóa văn nghệ trung ương mà đứng đầu là Trưởng ban Trần Độ và Phó trưởng ban Nguyễn Văn Hạnh, đưa đến sự khởi đầu một cách mạch lạc trong bài Về một đặc điểm của nền văn học ta trong giai đoạn vừa qua (báo Văn nghệ số 23, tháng 6.1979) của Hoàng Ngọc Hiến” [21, tr.32]. Ông không chỉ phất cờ đứng tiên phong trong hàng ngũ những người đổi mới, mà còn bằng hành động cụ thể, với tư cách là Tổng biên tập báo Văn nghệ, cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn Việt Nam, ông đã có tầm nhìn chiến lược một cách mới mẽ, vận động và cổ vũ cho công cuộc đổi mới, cho in những tác phẩm như Cái đêm hôm ấy…đêm gì? của Phùng Gia Lộc, dám chịu trách nhiệm và đối thoại với búa rìu của dư luận. Trong lịch sử dân tộc và lịch sử văn học, những người có khát vọng và đi đầu trong việc canh tân đất nước đều là những trí thức, những nhà văn hóa. Con người luôn mang tâm thức và khát vọng đổi mới là những nhà văn hóa. Nếu không sợ tư tưởng thiên vị có tính cục bộ địa phương, thì dân “Quảng Nam hay cãi” đứng trong hàng ngũ phát động công cuộc canh tân, đổi mới trong lịch sử từ xưa đến nay không phải là ít: Phạm Phú Thứ, Lương Khắc Ninh, Phan Khôi, anh em nhà họ Nguyễn Tường… Hóa ra, đổi mới là hệ lụy của “hay cãi”, có cãi, có cọ xát, có phản biện xã hội mới phát hiện và đưa đến đổi mới.

Người làm sáng tạo nghệ thuật là người thường trực khát vọng sáng tạo ra cái mới, tư tưởng và tâm thức sáng tạo của anh ta thường xuyên đổi mới. Nhà phê bình nghệ thuật Xô viết Lunasacski cho rằng: “Nghệ sĩ có giá trị chính là người khai hoang, là người bằng trực cảm của mình, thâm nhập vào những vùng mà khoa thống kê và lý luận khó thâm nhập” [22, tr.123]. Nguyên Ngọc là một trong những con người như vậy, người đã tạo ra được bản sắc, phong cách và cá tính sáng tạo độc đáo của nền văn học Việt Nam hiện đại; với tính cách năng động, tấm lòng chân thành với cuộc sống, khát vọng thanh khiết hóa tâm hồn con người và bản thân cuộc sống để ươm mầm những mẫu người văn hóa cho tương lai. Với những gì đã trải nghiệm, đã nghiệm sinh, Nguyên Ngọc thật sự in đậm chân dung một nhân cách trong đời sống xã hội, một văn cách trong đời sống văn học, chỉ của riêng ông.

  PHẠM PHÚ PHONG
Nguồn: VHNA

________________________

[1,19] Nguyên Ngọc (1983), Chiến trường những năm tháng ấy, sống và viết, in trong Về một vùng văn học, Viện Văn học – Hội văn học nghệ thuật Quảng Nam Đà Nẵng xuất bản
[2,4] Phạm Thị Hoài (1993), Từ Man nương đến AK và những tiểu luận, Nxb Hợp lưu
[3,13,14,17,18] Nguyễn Trung Thành (1969), Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, Nxb Giải phóng
[5] Nguyên Ngọc (2009), Suy nghĩ nhân đọc thơ dịch của Khương Hữu Dụng, in trong Văn nghệ sĩ Liên khu Năm, lý tưởng, nhân cách, sáng tạo, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
[6,7,20] Nguyên Ngọc (2005), Cuộc đời và tác phẩm, dẫn theo Nguyễn Đăng Mạnh, Những bài giảng về tác gia văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội
[8] Phong Lê (1983), Nguyên Ngọc – Nguyễn Trung Thành, in trong Về một vùng văn học, sđd
[9] Tôn Phương Lan (2006), Tự điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục
[10] Nguyên Ngọc (1956), Tôi viết “Đất nước đứng lên”, tạp chí Văn nghệ quân đội, số 12, ngày 15.4.1956
[11] Dẫn theo Thanh Quế (2015), Bút ký và chân dung, Nxb Văn học, Hà Nội
[12] Trần Đăng Khoa (2000), Nhà văn Nguyên Ngọc – tác giả trong nhà trường, báo Giáo dục và thời đại, số 46,47
[15,16] Nguyên Ngọc (1980), Rẻo cao, Nxb Văn học, Hà Nội              
[21] Xin xem Phạm Phú Phong (2016) Lý luận phê bình văn học thời kỳ đổi mới, in trong Văn học Việt Nam ba mươi năm đổi mới (1986-2016)-sáng tạo và tiếp nhận (Kỷ yếu hội thảo quốc gia Thành tựu văn học Việt Nam ba mươi năm đổi mới 1986-2016), Nxb Văn học         
[22] Nhiều tác giả (1987), Nhà văn bàn về nghề văn, Nxb Tác phẩm mới  

Thứ Năm, 20 tháng 9, 2018

“SONG TỬ” VÀ NHỮNG CƠN RUNG-CHẤN-TÌNH CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ THƠ

Người đọc từng biết đến Như Quỳnh de Prelle với tư cách là một nhà làm phim, một giọng thơ tinh tế, sâu sắc và không kém phần nổi loạn. Thơ của chị đăng tải nhiều trên các diễn đàn trong nước và ngoài nước. Chị xem không gian internet là sân chơi của thi ca. Chỉ đến khi Song Tử ra đời, người đọc mới có cơ hội nắm bắt những cảm quan thẫm mỹ cũng như sức hấp dẫn, lôi cuốn của ngôn từ trong thơ chị.
Nhà thơ Như Quỳnh de Prelle

Song Tử là tập thơ chị viết dành cho những tưởng tượng của thi ca, thể hiện những tình cảm và sẻ chia cùng anh. Ở đó, tình yêu của người đàn bà thơ với anh - Song Tử, được cài bện trong tình yêu thi ca, tình yêu con người, quê hương, cuộc sống... Anh - Song Tử, là một hằng số vô cùng khơi mãi những thương yêu bất tận. Anh - Song Tử cũng là một hình tượng nghệ thuật ẩn chứa những suy tư vừa kín đáo vừa táo bạo về thế giới của chị.

Những câu thơ Như Quỳnh de Prelle viết như những lời tâm sự, thủ thỉ, tâm tình với anh về tình yêu, về thơ ca, về cuộc sống. Ở đó, chị bày tỏ tình yêu tha thiết, thủy chung, mãnh liệt, bỏng cháy và luôn tìm về sự hài hòa cả về tinh thần lẫn thể xác, khát chờ một hạnh phúc vĩnh hằng, một tổ ấm vẹn toàn. Anh chính là mạch sống đời thơ chị. Chị biết cách nhen nhóm và gìn giữ tình yêu với sự chăm chút đáng quý: “yêu anh yêu anh từng nhịp đập từng nhịp từng nhịp”. Với chị, yêu là phải bùng cháy cảm xúc để tỏ lòng với người mình yêu. Do vậy, sự gắn bó, khăng khít giữa hai người tình không chỉ đo bằng chiều dài của thời gian mà còn được mở rộng biên độ yêu, không gian yêu. Đâu chỉ hiện tại, mà ngay cả cõi mơ, tình yêu ấy vẫn nảy nở, đằm sâu: “Em đợi anh/ Yêu anh/ từng ngày từng ngày một/ như hơi thở/ như những hẹn hò trong mơ/ như những thảng thốt/ bất ngờ” (Anh. Tiếng Việt và quê hương). Yêu như là nhịp thở của nhau và đến khi tràn sang cả cõi mơ thì sức mạnh của tình yêu, nỗi khát hòa nhập được đẩy lên cao hơn.  

So sánh là một trong những phương thức tăng thêm vẻ đẹp của diễn ngôn, của hình tượng được nói đến cũng như gửi gắm nỗi niềm, triết luận của tác giả về cuộc thế. Cấu trúc so sánh được Như Quỳnh de Prelle sử dụng khá nhiều. Khảo sát tập Song Tử, chúng tôi thấy cấu trúc anh là (A + là + B) xuất hiện 23 lần/81 bài thơ. Hình tượng anh trở thành nguồn cảm hứng đặc biệt trong thơ chị:

Song Tử duy nhất của em
anh của em
anh là Tổ quốc của em
trên địa cầu hôm nay

  (Anh. Tiếng Việt và quê hương)

Yêu và nhân niềm tin yêu mỗi ngày bằng gia vị riêng nhưng tất yếu không thể thiếu gia vị của lòng trân quý người tình. Cách so sánh đối tượng cụ thể với đối tượng trừu tượng, mang tính biểu tượng cao, thiêng liêng ở đoạn thơ này là một phát hiện thú vị của chị. Việc lặp lại các từ "của em" góp phần khẳng định tính sở hữu cũng như nhấn mạnh tình yêu bất diệt của người đàn bà thơ đối với anh. Đoạn thơ khác, yếu tố khẳng định đi kèm với các hình ảnh được so sánh xuất hiện liên tục: anh là một cánh rừng màu xanh của em/ là ngôi nhà diệp lục tưởng tượng của em/ là Song Tử/ cho em hẹn hò/ anh là không khí/ cho em thở/ cho màu xanh định mệnh của em/ cho sự thất thường của em/ trong sâu thẳm (Thêm một trái tim ở bên). Người đàn bà thơ biết nêm nếm đúng khẩu vị yêu, muốn khám phá kiệt cùng thế giới tâm hồn của anh. Anh được ví với mọi chiều kích của vũ trụ, xuyên qua lưới thời gian, là ngọn gió thơm mát, là những gì tinh khôi,… trong trái tim người đàn bà thơ. Mỗi cấu trúc thơ mở ra một cánh cửa tình. Cấu trúc anh - cánh rừng: không gian mênh mông ngập tràn sức sống. Anh - ngôi nhà diệp lục: gợi không gian gia đình ấm cúng, đoàn tụ. Anh - Song Tử: mẫu người đàn ông tuyệt vời. Anh - không khí: sự cần thiết để duy trì tình yêu và cuộc sống. Sự bó hẹp dần về không gian ở đoạn thơ trên chính là sự rút ngắn khoảng cách giữa hai người tình. Nỗi khát tình, khát hòa nhịp lòng của người đàn bà thơ đối với anh xuyên suốt, nồng nàn và ngày một lớn thêm.

 “Song Tử” là “những con chữ của tình yêu”, là “mùa em dành cho anh tình yêu bất tận/ sự ân cần và hân hoan” (Bài thơ viết trong vườn). Người đàn bà thơ xem mình là nước. Anh là rừng. Nguồn nước chảy và thấm vào đất, vào rừng những mạch nguồn của tình yêu. Nguồn nước ấy mang đến sự thanh khiết, hòa hợp và sinh sôi nảy nở. Nguồn nước thanh khiết này sẽ tưới tắm, xoa dịu tâm hồn anh. Và cũng là hình ảnh tượng trưng nguồn thụ tinh cho một tình yêu đẹp, luôn chuyển dịch, vận động để tái sinh: “Hơn bao giờ hết, lúc này nàng nhận ra nàng yêu anh biết bao, cần anh biết bao, nàng tiếp tục yêu và yêu yêu như nước quấn quanh rừng, như những mạch ngầm của dòng chảy không tách rời mặt đất kia… nàng là nước, là người đàn bà mang nước để yêu anh như nguồn nước mẹ” (Song Tử). Mạch tình ấy không đơn thuần chỉ là sự hiện hữu qua những hành động (yêu) mà còn như nguồn nước mẹ thấm sâu, lan rộng khắp (quấn quanh, không tách rời). Trên nền gắn kết nàng-anh, nước-rừng, tình yêu nảy sinh, bình dị, son sắt, ngọt lịm, tràn trề, không bao giờ vơi, không bao giờ ngưng.

Nước trong thơ Như Quỳnh de Prelle còn mang biểu tượng phái sinh. Nước tăng thêm sự đủ đầy, thanh nhã cho không gian của tình yêu và vẻ đẹp tâm hồn:

Bảo Bình của anh là em
em chỉ có một Song Tử là anh
trời đất mang anh đến cho em
vũ trụ chuyển hoá anh cho em
một người mang nước có anh
và yêu anh

anh là cánh rừng
em là những dòng nước
chúng ta bao quanh nhau
nước từ trong lòng sâu của đất
nuôi dưỡng mạch nguồn cho rễ của cây
anh chở che em
bằng màu xanh diệp lục
sự chuyển đổi của thời gian
bằng tình yêu
lặng im lặng im
không cần nói bằng lời

     (Song Tử của em)

Ở đoạn thơ trên, cặp đôi cánh rừng-dòng nước bổ sung, tương hỗ mang ý nghĩa thanh tẩy, nhen lên những mầm sống tươi mới, hồi sinh tâm hồn, kết hoa trái tình yêu. Trên tinh thần ấy, nước còn là biểu tượng của vẻ đẹp thiên tính nữ, mềm mại, trong sáng, nảy sinh sự sống mới; là chất kết dính, là sự hòa quyện tuyệt vời giữa cung Bảo Bình và cung Song Tử. Sự chuyển hóa dòng nước tình yêu mát lành từ em sang anh, từ Bảo Bình sang Song Tử và ngược lại, là một quá trình xuyên thấm và bồi đắp liên tục giữa hai trái tim đồng điệu, sống hết mình vì tình yêu. Yêu là phải tự tin, tự thổ lộ với người tình bằng trái tim nồng nàn và rất đỗi ấm áp, mến thương của mình. Vì vậy, tiếng nói thơ chị lúc nào cũng mong mỏi "tìm kiếm sự vẹn nguyên ngay cả khi cái chết cận kề". Quyết tâm đó đã xác tín tiếng nói tự chủ, cá tính nữ trong hành trình tìm sự trọn vẹn tình yêu của người đàn bà thơ.

Khi yêu, ai cũng muốn thấu trọn trái tim người tình. Vì vậy, chị còn đặt ra những giả thiết, lật lại vấn đề: "Em cũng không có cơn mưa nào cho anhnên em thấy anh là giọt nước cho em uống anh trong cơ thể em (Em và anh). Anh là giọt nước tinh khiết bù đắp nguồn sống cho em. Sự luân chuyển, thay đổi vị trí giữa người cho và người nhận, Như Quỳnh de Prelle đã chứng minh sức sống mãnh liệt của tình yêu giữa người đàn bà thơ và anh không bao giờ khô cạn, mãi mãi xanh tươi, quyến dụ suốt mùa yêu. Hơn nữa, khi yêu, người ta luôn có nhu cầu làm mới, nhen lửa tình yêu mỗi ngày. Nhưng nhu cầu nắm bắt, hiểu hết người mình yêu là một hành trình vô tận. Chừng nào còn nhu cầu kiếm tìm tình yêu thì tình yêu còn tồn tại. Người đàn bà ấy không để tình yêu nguội lạnh như lớp tro buồn, hoang hoải: “Em muốn yêu anh lại từ/ hôm nay như một ngày mới/ đang đến, mở mắt ra em/ nhìn thấy anh ở bên và/ có anh trên khắp mọi nơi/ em đến, em đi, ngồi lại”(Người yêu dấu ơi)Chị biết nhân thêm tình yêu và làm mới tình yêu mỗi ngày, biết hòa nhập, đồng điệu với người mình yêu để tôn vinh sự thủy chung và thiêng liêng của tình yêu. Ý thức này một mặt khẳng định tình yêu bền vững, vĩnh cửu của người đàn bà thơ với anh - Song Tử, không gì có thể chia cắt được, mặt khác, hướng con người đến sự trọn vẹn, đến những giá trị tốt đẹp hơn.

Người đàn bà thơ đa cảm, đa tình nhưng không yếu đuối, ngược lại, rất cứng cỏi, bản lĩnh, đầy cá tính. Nỗi khát yêu đôi khi được dồn đẩy, vỡ ra và bứt phá. Nó làm nên lớp sóng yêu dào dạt, chuỗi thanh âm nhục cảm táo bạo cho tập thơ: “anh là thời gian không gian của em/ anh là chú chim non gọi em buổi sáng/ dặn em đi ngủ lúc đêm khuya/ anh là con tinh trùng vô hình/ quẫy đạp em/ sinh sôi/ anh nằm trên ngón tay em/ lặng im lặng im”(Anh đến từ đâu). Đoạn thơ này, yếu tố được so sánh phát huy hiệu lực cao, tăng dần mức độ tình cảm và dừng lại ở hình ảnh nhục thể, hoan lạc, táo bạo. Những cuồng nhiệt của tình yêu, niềm hạnh phúc vô biên tràn ngập thời gian và không gian. Một tình yêu viên mãn. Một sự kết nối tuyệt đích. Ở bài thơ "Thư viết cho người yêu", những từ ngữ đan phối, duỗi theo cơ chế tăng tiến cảm xúc như thèm, muốn, nuốt, hôn, uống, túm, ăn,... dội thẳng vào tâm trí người đọc: “lên cơn nhớ anh thèm anh bất tận/ em muốn được ăn cái lưỡi của anh/ hàm răng của anh/ ăn cả đôi bàn tay dài trắng muốt/ nuốt cả những ngón tay những móng tay sạch sẽ/ em ăn cả cơ thể của anh/ trên ngực anh em gối đầu/ và hôn vào chiếc rốn năng lượng/ em sẽ làm gì tiếp theo/ làm gì nào/ anh yêu ơi// lên cơn nhớ anh thèm anh bất tận/ mùa xuân ngọt lành/ em uống từng giọt từng giọt mồ hôi/ trên 2 cơ thể chúng ta/ em túm từng lọn tóc từng lọn tóc/ khô ơi là khô nước mắt em trào dâng/ ướt đẫm người anh/ em muốn được ăn anh toàn phần/ uống anh từng nụ hôn/ từng giọt nước mắt/ từng giọt mồ hôi/ từng giọt yêu đương từng giọt từng giọt// em đang yêu anh/ yêu anh”. Chúng ta thấy nhịp thơ đoạn này tương đồng với tốc độ cảm xúc tạo nên hiệu ứng nhạc tính của những con chữ và hiệu ứng nhạc lòng của hai người tình. Tất cả níu vào nhau, đan vào nhau theo một chỉnh thể thống nhất và cao trào. Đôi khi lời tình yêu chỉ là những thanh âm chân thật, tự nhiên nhưng vẫn khiến người đọc mê say trong miền nóng ấm của sự giao hòa: Anh che chở em tha thứ em theo nhịp đập từng hồi từng hồi và ngưng lại trên cơ thể mềm mại của em// Em lại chui vào anh nồng nàn tha thiết yêu đương// Có những lúc như thế, chúng ta vỡ ra những những thuỷ tinh và trong veo như những giọt nước mắt không màu đầy ánh sáng của tình yêu và bao dung// Em đang yêu anh yêu anh, Song Tử của em (Chúng ta là một). Đoạn thơ không khai thác rõ những hoạt động tính dục mà chỉ xoáy vào cảm xúc nhục thể bằng ngôn ngữ tinh tế, giản dị, cho thấy cái nhìn đa chiều của Như Quỳnh de Prelle khi nói về say đắm của tình yêu. Dù cảm xúc ào ạt, cháy bỏng hay dịu dàng, kín đáo nhưng có thể nói không một khoảng cách, ranh giới nào chia lìa được hai người tình. Cấu trúc dạng thơ văn xuôi ở đây trải dài như mở rộng thêm biên độ của tình yêu, của cảm xúc trong cơ chế vận động của những thanh âm tha thiết, mê say (che chở, ngưng lại, chui vào, vỡ ra). Nếu thơ tình yêu Vi Thùy Linh được giải tỏa bằng những cơn xúc cảm bạo dạn, được dệt bằng “những trận bạo động chữ” thì thơ Như Quỳnh de Prelle lại có cái riêng khác. Sự mơn trớn, tận hiến được đẩy đến cao trào nhưng vẫn hết sức tinh tế, chừng mực, vẫn giữ được sự dịu dàng, nữ tính của giới thứ hai. Đó là một cơn khát thèm vừa có sự nhã nhặn vừa có sự quyết liệt, vừa khơi gợi vừa kiềm chế được bản năng của người đàn bà đang yêu.

Cô đơn “thuộc phạm trù cái đẹp”, là cú hích sáng tạo đối với người nghệ sĩ. Chọn con đường thơ ca, nghĩa là họ đã chọn cho mình một lối đi riêng khác, thậm chí chịu số phận của kẻ bên lề, phải chịu sự đày ải và những va đập buốt nhói của cuộc sống. Đây là vận mệnh chung của những kẻ dấn thân vào mê lộ đày ải, sống chết vì nghệ thuật. Đây cũng là cảm thức chủ đạo, xuyên suốt chặng đường đến với thi ca của họ. Vận mệnh ấy cũng vin vào Như Quỳnh de Prelle. Bên cạnh những nghiệm sinh về tình yêu, thơ chị cũng viết nhiều về nỗi cô đơn. Chị cô đơn đến nỗi chốn nào cũng không tìm được sự đồng cảm, sẻ chia. Nỗi đơn độc như sợi dây định mệnh đeo bám, vấn vít thơ chị: “nàng lại cô độc/ lại như xưa/ trong những nơi nàng đến nàng qua và ngồi lại/ chả còn ai mong đợi nàng/ đọc nàng nữa/ chả còn ai còn ai” (Nắng không thể cạo hết nỗi buồn của nàng). Khi đối diện với nỗi cô đơn, lạc lõng, thơ chị càng đẫm sâu vào nỗi buồn. Nỗi buồn đan từ lớp này sang lớp khác, ken chật con chữ. Chị sắp xếp và đo độ bền chặt từng nỗi buồn của chính mình: …buồn không ngớt; nỗi buồn lặn sâu cào xới những rạn nứt; thấm vào da thịt dòng máu nhiệt đới buồn; em chôn những nỗi buồn vào đá nghìn năm nguyên vẹn; nỗi buồn thời này chất chứa từ bao đời, từ quá khứ, từ hiện tại và tương lai chỉ là hy vọng hão huyền cho sự ảo tưởng khốn cùng,… Tại sao nỗi buồn trong thơ chị rậm đặc, dai dẳng và day dứt như thế? Phải chăng những bất trắc của cuộc sống đập dội, dồn đẩy chị đến mức phải bung ra, vỡ ra cả trái lòng mình? Phải chăng nỗi buồn này sẽ là chìa khóa để chúng ta giải mã, thấu hiểu và đồng cảm với chị qua những ẩn ức đang bật dậy, qua sự tuôn chảy của xúc cảm, của những ký tự đầy biến hóa?

Bản chất của cuộc sống là sự va chạm giữa các mặt đối lập. Con người bị ném trong guồng quay ấy, hệ lụy, cũng chứa nhiều mặt thuận nghịch. Thơ Như Quỳnh de Prelle sử dụng nhiều cặp tương phản, đối lập (được - mất, ánh sáng - bóng tối, chân thành - dối trá, thực - ảo, hạnh phúc - khổ đau,...). Những cặp đối nghịch này xây dựng nên sự đa dạng của gương mặt thế giới và làm rõ tâm thế người đàn bà thơ - hoang mang, chứa đầy mâu thuẫn:

có lúc nàng hạnh phúc
trên tay với những bó hoa hồng
có lúc nàng tuyệt vọng như một đám tang suốt bốn mùa
có lúc nàng nhẹ dạ ngô nghê trao gửi không hề hấn tiếc chi
có lúc nàng tin
tin vào ngọn cỏ
tin vào sự an nhiên
tin vào sự cô độc
tin vào sự kiếm tìm

   (Tuyệt vọng tháng 5)
Tập thơ Song Tử của Như Quỳnh de Prelle (NXB Thuận Hoá)

Vậy nguyên nhân gây nên sự hoang mang có phải từ chủ thể? Như Quỳnh de Prelle lý giải: "chuyện gì cũng hoang mang/ vô vọng/ tình yêu vô vọng/ dân tộc vô vọng/ cái chết vô vọng/ niềm tin ở đâu/ ở đâu"? (Tuyệt vọng tháng 5). Thì ra, trong xã hội này, mọi thứ đều vô vọng. Con người mất hết niềm tin. Nỗi niềm chát đắng, đau buồn của con người không bao giờ nguôi ngoai: trong căn nhà cổ/ em nhìn thấy tổ tiên loài người buồn bã/ như những cơn hen kéo dài/ đậm đặc thuốc men (24h một ngày và 24h/s). Hay một đoạn thơ khác, cuộc đời quá dày đặc buồn đau, con người cứ quẫy cựa mãi cũng không giải thoát được: buồn trái tim hẹpbuồn lý trí ác ônbuồn cả cuộc đờichả vui hết ngàykhi vẫn còn thứckhi vẫn còn nhịp đập (Nỗi buồn tháng 4). Cuộc đời mà chị tái hiện, cái tình người quá đỗi mong manh. Bởi tình yêu cao quý mà tạo hóa ban tặng đâu thể nảy mầm trên cái nền xám xịt này? Vì lẽ đó, chị cho rằng, nơi “cõi thế mù loà dang dở”, tình yêu thương bao giờ cũng là của hiếm:

cuống cuồng yêu đương
cuống cuồng hẹn hò
cuống cuồng hờn giận
cuống cuồng điên rồ
cuống cuồng giao hợp
tình yêu thì hiếm hoi
loài người luôn đói khát sự yêu thương ân cần

                  (Cuống cuồng yêu)

Đến đây, chúng ta đã hiểu vì sao thơ chị viết nhiều về nỗi buồn (58 từ buồn/81 bài thơ). Những nỗi buồn của chị ám ảnh từ ngàn xưa cho đến bây giờ. Nỗi buồn luôn thường trực trong Song Tử, đúng như cách gọi tên của chị: những khúc niệm sinh buồn”. Dấn sâu vào nỗi buồn đau, cô đơn, chúng tôi thấy thơ Như Quỳnh de Prelle càng sắc, càng chân thực, mang đến luồng gió mới trong cách nhìn nhận, đánh giá cuộc thế. Chị chấp nhận cơn đớn đau như một phần của cơ thể trong cuộc nghiệm chứng những bất ổn. Đó là nguyên do để người đàn bà trong thơ chị muốn "ăn cả vạn vật trên thế giới", chào đón cuộc sống bằng con đường khác: nàng muốn ăn cả những lời nói thối tha/ những định kiến/ chả bao giờ đổi thay lịch sử/ những thấp hèn ti tiệnnàng sẽ chết hay tiếp tục tồn tại/ trong thế giới này// sau khi người ta đọc và ăn những bài thơ của nàng bằng mắt, ý nghĩ/ bằng cách nào đó/ nàng tiếp tục viết/ ăn cả loài người/ bằng ngòi bút/ trên bàn phím/ trong khuôn hình màn hình của chiếc Macbook E (Nàng thơ). Nuốt vào cuống họng những mặt trái của xã hội rồi thực hiện theo chu trình nhào nặn của riêng chị là hành động khá táo bạo. Mong mỏi đổi thay ấy minh chứng trách nhiệm và lương tâm rất nhân bản của người nghệ sĩ. Từ chu trình ăn, uống, sa thải của người đàn bà thơ, chúng ta thấy rõ bản lĩnh mạnh mẽ của chị trước mặt trái của xã hội. Chị còn cho rằng:“trong thế giới loài người/ trong đồng loại của mình/ tôi nên biết nhiều hơn/ chia sẻ nhiều hơn/ gặp gỡ nhiều hơn/ viết nhiều hơn/ để được tồn tại/ được sống/ trải nghiệm/ để được mất mát/ đớn đau” (Cuộc thế)Hành động dấn thấn, nhập cuộc, dâng hiến tận cùng vào bể đời này của chị thật đáng quý, thể hiện bản lĩnh và tâm hồn của người nghệ sĩ sống hết mình, cháy kiệt cùng cảm xúc vì thơ vì đời. Thì ra, nỗi đau, nỗi cô đơn đôi khi lại là cơn chấn động đáng quý để kích hoạt trái tim của người nghệ sĩ.

Tồn tại trong bầu sinh quyển mà mọi giá trị chuẩn mực của đời sống đều có nguy cơ viêm nhiễm, lệch chuẩn, liệu con người có thể thoát khỏi nỗi cô đơn, tìm kiếm tự do, hạnh phúc cho chính mình được không? Và khi mọi giá trị bị đổ vỡ, mất hết điểm tựa, việc con người rơi vào trạng thái cô đơn, cảm thấy lạc loài, lẻ loi, rỗng không là tất yếu, là đương nhiên. Lúc này, con người buộc phải chấp nhận sống chung với cõi thế khủng hoảng, hỗn mang. Vấn đề, trước những hỗn mang ấy, chúng ta phản ứng và thanh lọc như thế nào? Như Quỳnh de Prelle không chạy trốn. Chị vạch ra những mặt nạ, những vết mủ ý nghĩ, những định kiến cổ hủ... đang tồn tại, bức tử tự do: tự do của nàng là tự thân nàng/ nàng sinh ra ở một thế hệ khác, thế kỷ khác/ sống một thế giới tưởng tượng khác/ của riêng nàng/ đừng áp đặt lịch sử và không gian với nàng/ nàng bên ngoài tất cả/ nàng chưa bao giờ phải chết đói/ chưa bao giờ phải hấp hối/ đừng nhìn nàng như những định kiến hẹp hòi những tham vọng tối mù/ của những kẻ tầm thường (Nàng thơ). Chị hiểu tự do không nằm ở đâu cả mà nó nằm ngay ở cách đặt vấn đề và xử lý của chính bản thân. Thể hiện tâm trạng cô đơn, lạc lõng, vô vọng, không thể bắt nhịp với cuộc sống một mặt giúp chị cất lên tiếng nói phản kháng, gửi gắm nỗi bất hòa, mặt khác thể hiện ý thức, sự lựa chọn hoàn toàn chủ động của người cầm bút. Vậy, Như Quỳnh de Prelle lựa chọn cô đơn, đón nhận cô đơn để giữ cái tôi, giữ bản ngã không bị “nhào trộn” cũng là giải pháp kiếm tìm tự do cho chính mình và thực hiện quyền năng hiện sinh cho thơ ca đấy thôi: “được sống trong một khoảnh khắc hiện sinh có thật, đó là nàng thơ và quyền năng của nàng thơ”(Thi ca hiện sinh). Càng rơi vào cô đơn, con người ta càng muốn giải thoát, vùng vẫy. Và nhất là khi chúng ta làm chủ được nỗi cô đơn thì nỗi khát khỏa lấp càng mãnh liệt.

Lẽ thường, khi không giải tỏa được những dồn nén, ẩn ức, con người dễ rơi vào trạng thái hoang mang, nghi hồ, thiếu hụt niềm tin, thậm chí nghĩ đến cái chết để giải thoát. Tâm hồn người đàn bà trong thơ chị cũng rơi vào trạng thái chông chênh, bất an, luôn có sự giằng xé giữa bản năng sống và bản năng chết: “nàng sẽ chết hay tiếp tục tồn tại”. Nhưng người đàn bà thơ không bỏ cuộc, không xem cái chết là giải pháp giải thoát bi thương cuộc đời bởi chị luôn biết cách tự đấu tranh với hiện thực, phủ nhận hiện thực. Do đó, cái chết cũng là một hình tượng nghệ thuật, bộc lộ thái độ của chị trước những vấn nạn cuộc sống. Cái chết được chị nhắc đến đâu phải là cái chết u buồn, chấm dứt, đoạn tuyệt với cõi này mà là chết để cứu chuộc, hồi sinh, mở ra những trang đời mớiChúng tôi thống kê, có 56 từ chết xuất hiện (trong tổng số 81 bài). Một tỉ lệ khá cao. Điều này lý giải vì sao những âu lo, bức bối đang chất chứa, thậm chí có xu hướng chồng lấn trong thơ chị. Những phức tạp, ngột ngạt của cuộc sống và phận người đắng đót được chị nhìn nhận dưới con mắt dạt dào tình yêu thương và trần tình bằng cả tấm lòng ấm áp, hi vọng. Chúng tôi xem lời trần tình này là sự đối thoại nhiều chiều và rất thành công của chị: người đàn bà thơ - anh (tình yêu và thi ca) - cuộc thế (đời sống và thân phận).

Cuộc sống trong thơ chị đang ở thì chưa hoàn tất. Mọi dữ liệu đều dở dang, tàn lụi. Đưa ra những "siêu thị mặt" (tên một bài thơ của Trần Quang Quý) như trên, chị muốn phán xét và sắp xếp, hoàn thiện thế giới theo một chu trình nhân ái. Trước những “lời nói thối tha”,những “thấp hèn ti tiện” của thực tại, chị nghĩ loài người cần có lúc chết đi, để hồi sinh, để vận vào đó chiếc áo mới, “lành lặn” hơn:    

có lúc loài người phải chết đi để được tồn tại
trong ý niệm của chúng ta, trở về cái hoang dại thủa xa xưa hay đôi lúc là một loài động vật tự nhiên trong ý thức thoát khỏi các khái niệm và tư tưởng, con người tự do và lành lặn hơn dù có khi muốn giết cái gì đó, ai đó trong tưởng tượng, như giết một lời nói, một ý nghĩ của thú hoang

       (Mặt trời dưới bóng olive già)

Thi sĩ vốn là người sinh ra đã mang nợ với trần gian, là kẻ chịu lưu đày giữa biển đời biển chữ. Họ hiểu và cảm nhận được những gì xảy ra xung quanh và hơn cả là họ hiểu được thực trạng của mình. Mâu thuẫn giữa cái tôi bản thân đời thường với cái tôi sáng tạo giúp người nghệ sĩ nhận ra chính mình, nhận ra cái bản ngã biệt lạ, riêng khác của mình. Vậy việc Như Quỳnh de Prelle đi tìm cái chết cho bản thân giữa sự tươi ròng của không gian và vĩnh cửu của thời gian nghĩa là chị đang bộc lộ khao khát được sống ở một thế giới khác, sáng và đẹp hơn: “và tôi đi tìm cái chết của tôi/ trong sự sống/ trong những tái sinh/ nảy mầm/ trong mảnh vườn/ trên ban công/ bốn mùa nắng mưa/ bão táp” (Tôi. Đi. Đến. Nằm xuống). Quan niệm cái chết như là sự tẩy trần, hồi sinh, chị thấy mình cần phải tiếp tục sứ mệnh kẻ cầm bút: viết nhiều hơn/ để được tồn tại/ được sống/ trải nghiệm/ để được mất mát/ đớn đau (Cuộc thế). Theo chúng tôi, những cảm xúc trực hiện, những diễn ngôn không hề đắn đo, do dự, quả quyết tham dự vào mê lộ thế cuộc này của chị đã xây nên tầng quặng tư duy triết luận và cơn rung-chấn-tình cho tập thơ.

Sự chuyển dịch, song song tồn tại giữa sống và chết, giữa ma trận hợp âm thanh thản - day dứt, nhẹ nhàng - gay gắt, hi vọng - thất vọng, vui - buồn, giữa trò chơi sấp ngửa, trắng đen chữ nghĩa trong thơ Như Quỳnh de Prelle là một chặng đường không bao giờ về đích, không bao giờ dừng lại. Những hợp âm ấy là kết quả của sự bung vỡ nội tâm, của nỗi xót xa trước hiện thực vô cảm, trống rỗng, nhàm chán. Ở cái ngưỡng chênh vênh, thơ chị đã đưa đến tiếng nói khác biệt và đầy cuốn hút.
               
Tâm thức lưu đày cũng là một biểu hiện của sự cô đơn. Tâm thức ấy là tự thân, là máu chảy trong mỗi chữ, mỗi câu thơ. Đọc thơ Như Quỳnh de Prelle, tâm thức cô đơn, lưu đày được hiện diện qua những vần thơ da diết nhớ, khát khao trở về, ăm ắp nỗi buồn tha hương “của người đàn bà ngoài 30 yêu thêm lần nữa/ lần nữa giữa lúc hoang mang/ giữa lúc tột cùng hạnh phúc/ tuyệt vọng” (Thư tháng 6). Sự thiếu hụt một tiếng nói, một bàn tay, một món ăn,... cũng đủ làm trái tim chị tê tái, nhức buốt. Người đàn bà thơ không đòi hỏi nhiều, chỉ cần 1s để nhen ấm bình minh lòng “giữa mùa đông Châu Âu” mà thôi: “sống nửa đời người nhận ra/ giao thừa tái sinh nhân loại/ trong 1s/ được là người An Nam 100 phần trăm/ nguyên sơ/ 1s không hoà nhập thế giới/ tự kỷ trong hình khối của nước mắt trong veo/ 1s để giữ lại dòng máu vẹn nguyên/ 1s là quê cha đất tổ/ là nén hương không khói nhang/ cho một linh hồn còn sống” (Giao thừa 16)Khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng yêu thương bỏng nhói như dồn tất cả về đây. Nỗi nhớ cố hương thêm vời vợi, da diết. Mảnh vườn phơi phới mật yêu chị dành cho anh cũng được hòa quyện, đan cài với tình quê. Chị chăm chút tình yêu như lòng say mê, nâng niu từng cọng lá, cành hoa của người làm vườn. Cả hương quê, mùi quê được “cày xới” trên mảnh vườn đong đầy tình yêu của chị: Em trồng rau muống để nhớ tuổi thơ/ em từng làm luống trước nhà/ những hàng rau xanh mát// Em trồng rau mồng tơi để nhớ mẹ già/ và bát canh cua mùa hạ/ mỗi mùa tháng 5 xưa// Em trồng rau dền đỏ để nhớ bà/ và nồi cá kho niêu đất/ ở vùng biển đầy cói xanh// Em trồng cây chanh nhỏ để món thịt gà/ không cô độc trên bàn ăn ngày tết (Vườn treo trên mây). Những ký ức của tuổi thơ, những tình cảm ấm nồng với mẹ, với bà được tái hiện thông qua các hình ảnh rất gần gụi, thân thiết, chan chứa yêu thương. Không khí rộn ràng của tết là khoảng lặng đẹp nhất để người con xa quê hơn nửa vòng trái đất được trở về đầm ấm với gia đình, được an ủi phần nào trong cái giá lạnh của mùa đông nơi phương xa. Cũng chung cảm thức ngóng vọng cố hương ấy, ở một bài thơ khác, tình cảm được đẩy cao hơn khi chị nhìn thấy “một quê hương đầy màu xanh biếc từ chính cõi tâm hồn mình: “buổi sáng thứ 7 làm tôi nhớ chợ quê ngoại/ trong những ký ức xa xưa còn nguyên/ đôi lúc tôi mở ra/ để nhìn thấy một khuôn hình nhẹ nhàng trôi qua trôi lại/ một quê hương đầy màu xanh biếc/ chứa đựng những tần tảo yêu thương vẹn nguyên/ những lần chờ mẹ về cuối tuần/ trên những con đường chúng tôi đếm khoảng cách xa gần bằng những cây cột điện" (Thứ 7 của tháng 7). Ở đây, chúng ta thấy, cảm thức lưu đày không hề rơi vào trạng thái buồn đau, chán nãn, bất lực. Theo chúng tôi, chính chị đã lấy ký ức tươi đẹp để nhen nhánh lửa lòng, xua tan cảm giác lạc lõng, bơ vơ nơi đất khách quê người. Cảm thức về quê hương, nhờ vậy, thêm phần khác lạ, khẳng định, minh chứng được bản lĩnh, nhân cách cao đẹp của Như Quỳnh de Prelle. Và mấy ai đủ tình, đủ sâu sắc, bản lĩnh để có được ý tưởng trồng cả quê hương như chị: 

Em trồng bí ngô để nhớ mùa tỏi thơm lừng bên bếp
Em trồng cả quê hương xa xôi trên vườn treo cùng mây gió
và mặt trời ánh trăng chan chứa tình yêu
Em trồng cho anh cả tình yêu đất đai quê hương cày xới mặn mà

                                      (Vườn treo trên mây)

Khoảng cách và sự chia cắt không làm Như Quỳnh de Prelle đánh mất góc quê tha thiết và thiêng liêng. Dù ở đâu, chị vẫn làm chủ trái tim mình, tìm về cội nguồn dân tộc. Có thể nói, trong thơ Như Quỳnh de Prelle, cảm thức lưu đày không phản ánh trạng thái yếu đuối, ủy mị, bởi vì, tình quê không bao giờ bị bật gốc, không bao giờ có thể xóa bỏ. Tình cảm ấy đã làm nên vẻ đẹp hiện sinh cho tập Song Tử.
               
Song Tử của Như Quỳnh de Prelle tẩy chay mọi ngụy biện và giả tạo. Cứ tuôn chảy, trào sôi tự nhiên như nguồn nước tinh khiết được cất lên từ lòng đất. Đối với Như Quỳnh de Prelle, thơ không đơn giản là cuộc chơi của chữ nghĩa, làm đỏm dáng, kênh kiệu câu chữ mà cái chính thơ chị ngoài việc giải tỏa những dồn nén, ở đó, còn là tiếng nói thiết thực về những đau buồn, những đổ vỡ, trầm luân của thế cuộc. Để chuyển tải ý tưởng và cảm xúc đó, chị rất chú ý đến việc giữ gìn và cách tân thơ ca. Thời đại bàn phím, theo chị, con người hầu hết đánh mất dòng chảy cảm xúc bản năng, tự nhiên khi sắp đặt mọi thứ theo một lộ trình có sẵn, “nhân tạo”: “Những bài thơ nhân tạo được sinh ra từ những tình yêu nhân tạo, thời tiết nhân tạo và không gian sống nhân tạo, cả những cơn ốm nhân tạo để lọc bỏ những cạn bã của một đời sống dư thừa mùi của máy móc và thông tin" (Thơ nhân tạo). Như thế, sự xuất hiện những bài thơ nhân tạo báo động sự biến nhịp, lỗi nhịp của tình người, của đời sống. Ý thức được hậu quả ấy, chị không cho phép ngôn từ thơ mình “sinh ra từ những cuộc phẫu thuật thẩm mỹ của ngôn từ/ độn chữ/ edit mông,/ sửa vú/ kéo dài chân ra/ để dự thi trình diễn/ giả dối/ sinh ra trong cơ hội rủi may/ trong những giọt nước mắt dối lừa/ sự hư danh/ tủn mủn và tắt mắt/ cửa quyền/ quyền của tài năng/ quyền của danh tiếng/ quyền coi thường người khác/ sống dựa vào hơi danh quá khứ lối mòn” (Thi ca và loài người). Trên con đường gánh vác cây thánh giá chữ đầy nhọc nhằn, quan niệm về lao động nghệ thuật của chị thật đáng được chúng ta ngưỡng mộ:

vươn mình lên nghiến những câu thơ
nhạt như khói bay
để bùng lên khát vọng
yêu quê hương
thứ tình yêu màu mè
khoe mẽ
chả có rung động đớn đau nào
nhớ nhung như giả vờ
khốn khổ
tha lương

    (Chào tháng 3 và những cái chết trong tưởng tượng)

Chị luôn vươn lên, sẵn sàng vứt bỏ những tẻ nhạt, tầm thường để sống hết mình với thơ. Hành động nghiến này rất cần thiết cho sự sống còn của nghệ thuật chân chính. Bởi, tình yêu và niềm đam mê con chữ phải xuất phát từ sâu thẳm cõi lòng chứ không phải chỉ để phô trương, cờ biểu rộn ràng. Phải đập vỡ sự nhạt nhẽo, giả tạo bên trong mới mong kiếm tìm được những rung động đích thực.

Ẩn sau mỗi bài thơ của chị là một hệ thống hình ảnh ẩn dụ, đầy tính biểu tượng, mang tính khái quát cao. Ngôn ngữ, hình ảnh thơ khác lạ, độc đáo cứ thế ngồn ngộn quẫy đạp, bứt phá, vượt qua những gò bó của câu chữ, gợi vẫy nhiều hứng thú. Đặc trưng giản nở của thơ văn xuôi còn giúp chị bung phá cảm xúc và tình ý, giải phóng những chật chội của hiện thực đời sống. Khi chị viết về nỗi buồn, có lúc như một ngọn gió chiều nhẹ nhàng lướt qua, có lúc trào sôi quấy đảo cả bầu trời, có lúc quánh đặc, chà đi xát lại, tê tái. Giải tỏa về nỗi buồn dấm dứ, dai dẳng, chị có cách nói khá ấn tượng: “nắng không thể cạo hết nỗi buồn của nàng”. Làm sao cạo/xóa/tẩy hết nỗi buồn về thế cuộc khi chúng tạo sinh quá dày đặc: “nàng đi vòng quanh thành phố nhỏ bên những ngôi nhà cổ xưa hàng trăm năm/ sao mà thấy cuộc đời buồn bã/ loài người sống thật ngắn ngủi cho những cơn đau/ cơn đau tình ái/ cơn đau bệnh đời/ cơn đau của cái chết/ của những sai lầm oán hận/ của đường đi phải hay trái trước con đường về nhà/ nắng không thể cạo hết nỗi buồn của nàng/ sự đớn đau đang héo mòn của nàng/ tình yêu mồ côi của nàng” (Nắng không thể cạo hết nỗi buồn của nàng). Không gian trần thế tối tăm, đặt con người trước những thử thách, phải tự vùng vẫy, tự đấu tranh để tìm lối thoát. Cho nên, nỗi đau đời,  nỗi buồn của người đàn bà thơ cứ dấm dẳng trong thơ chị. Chúng tôi xem đó là nỗi buồn đẹp, trong sáng, kiêu sa, không bị che phủ bởi các quầng mây đen như chị đã tuyên ngôn: “nàng thơ, một hình hài cụ thể của một người đàn bà An Nam bình thường. thi ca của cô ấy kết nối những con người cô độc, chạm vào cõi lòng đang chơi với, đang kiếm tìm mơ hồ để tiếp tục được sống, được ngẩng đầu lên” (Thi ca hiện sinh).
               
Những băn khoăn, trăn trở của Như Quỳnh de Prelle về nỗi buồn, cái chết, cuộc thế,... trong tập “Song Tử” bật lên sự sâu sắc và tinh nhạy của một cái tôi đa diện. Xuất phát từ điểm nhìn của người đàn bà thơ đang yêu nên mọi cảm xúc đều được đẩy đến tận cùng. Ngay cả cái thế giới bừa bộn kia cũng bị bóc tách theo cơ chế vận hành của tình yêu. Tình yêu nối kết người với người nhưng tình yêu cũng làm nên lớp ngôn từ hiện sinh để xóa bỏ, chọc thủng những ý nghĩ nhơ nhớp, đen tối. Nghiệm sinh mọi thứ qua hình tượng nghệ thuật - anh - Song Tử, chị đã tưới lên mùa Song Tử sự tươi mới, mạnh bạo nhưng vẫn hết sức chân thành, đậm tính nữ.
               
Cày ải tư duy và gieo chữ trên cánh đồng nào, Như Quỳnh de Prelle cũng thể hiện sự cởi mở và táo bạo. Khát vọng giãi bày yêu đương của chị hết sức nhân văn. Nó chứng tỏ bản lĩnh cũng như cá tính nữ của chị. Hành trình đi tìm bản thể, hạnh phúc, sự tự do của chị không dừng lại ở một không gian thời gian nào, mà luôn chuyển động. Nếu xem “Thơ vừa là chỗ dừng chân vừa là cuộc hành trình” (R.Gamzatôp) thì chúng tôi xem sự chuyển động tình cảm, sự chuyển động ngôn từ trong tập “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle như một một dòng sông đầy ma mị, luôn ẩn chứa các lớp sóng ngầm, miết mải bồi đắp nên những hình tượng thơ đẹp, mang tính nghệ thuật cao. Với một lối viết đầy cảm xúc, đầy lý trí và đầy ắp phù sa chữ nghĩa như thế, thơ chị không hề mòn vẹt, nhàm chán. Chúng tôi tin, dòng sông thơ của chị không bao giờ đứng yên, luôn vươn tới, khám phá và tận hiến vùng đất mới.

20.12.2016
HOÀNG THỤY ANH
Theo NVTPHCM

NHÀ VĂN THÙY DƯƠNG: TRĂN TRỞ VỚI MỖI THÂN PHẬN NGƯỜI

Nếu không biết Thùy Dương sinh ra và lớn lên ở Hải Dương, sẽ đoán   chắc nàng là người Hà Nội gốc. Gọi là nàng v ì nàng không chỉ xinh đẹp, ...

BÀI ĐỌC NHIỀU