Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2019

BỨC CHÂN DUNG TỰ HỌA TRONG THƠ NGÂN GIANG

Đọc bài phú Trưng Nữ Vương của Ngân Giang người đọc không chỉ cảm thấy những phẩm chất dũng liệt của người nữ anh hùng trong buổi đầu dựng nước mà còn cảm nhận sâu sắc hơn nỗi lòng của một người đàn bà góa bụa:

Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi điện ngọc bơ vơ quá
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi

Dù là vị vua đứng đầu triều chính thì lúc này nỗi cô đơn vẫn vò xé trái tim bà. Quan niệm nghệ thuật mới về con người đã thể hiện hình ảnh bà Trưng thật sống động và gần gũi. Người đọc thấm thía với nỗi đau riêng của bà qua 20 thế kỷ.

Có thể khẳng định rằng, chỉ có tình cảm và nỗi lòng trắc ẩn của  một nữ sĩ như Ngân Giang mới khắc họa được chân dung bà Trưng độc đáo và tài hoa đến thế. Bài thơ này đã góp phần quan trọng đưa Ngân Giang đến với sự tôn vinh “Nữ hoàng Đường thi” của thế kỷ XX.
Nhà thơ Ngân Giang.

Chung quanh cuộc đời hơn 80 năm cầm bút của nhà thơ Ngân Giang có khá nhiều câu chuyện đã trở thành giai thoại.

Người ta kể lại rằng, vào ngày 25- 3-1969, thi sĩ Đông Hồ trong khi đang bình bài thơ này cho các sinh viên Đại học Văn khoa Sài Gòn cùng thưởng thức, đọc đến câu: “Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa/ Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi” và ông mới thốt lên: “Chàng ơi....” thì ngất xỉu ngay trên bục giảng, để rồi sau đó ít giờ, ông vĩnh viễn từ biệt thế gian.

Cái chết của thi sĩ - nhà giáo Đông Hồ trong lúc trình diễn bài thơ của nữ sỹ Ngân Giang được xác định là do chấn động tâm lý, dẫn tới cơn tai biến mạch máu não. Đây được xem là một trong những giai thoại văn chương ấn tượng nhất từ trước tới nay.

Trước đó, năm 1952, thi sĩ Đông Hồ và nữ sĩ Mộng Tuyết ra Bắc thăm Ngân Giang. Trong buổi gặp gỡ, họ yêu cầu bà đọc bài thơ Trưng Nữ Vương.

Khi Ngân Giang ngâm xong, hai người bạn thơ rất thích thú và kể cho bà nghe chuyện: Có một số thi sĩ miền Nam nghi bài này của nam giới làm, mới có lời thơ phí khách như vậy. Đông Hồ phải đưa ảnh Ngân Giang ra giới thiệu, họ mới chịu tin.

Trong buổi nói chuyện, Đông Hồ kể về cảnh đẹp sông Hương, núi Ngự và tặng Ngân Giang bài thơ:

Kẻ sĩ vẫn còn hương vãn tuyết,
Danh hoa đành mãi nở trong mưa
Mày ngài mắt phượng khôn qua số
Bút thỏ nghiên son mấy đợi chờ
Hoa cúc để gày thu đất Bắc
Đường về mang nặng mối tương tư…

Nghe lời kể của các bạn thơ, Ngân Giang cảm xúc làm bài thơ Huế để tặng lại:

               Huế
(Kỉ niệm buổi hội ngộ nhà thơ Đông Hồ)

Đông Hồ tưởng niệm bao nhiêu
Đêm đêm lệ nến rơi theo lá vàng
Huế, qua lời bạn Đông Hồ
Hương Giang đẹp lắm! Không vô cũng hoài
Mây mờ núi Ngự chơi vơi
Hò ơ! Mái đẩy chở người trong trăng
Chén mời, thuyền ghép bâng khuâng
Thơ trao mặt nước, nước lồng bóng mây
Nghiêng hồ nghe khách so dây
Mà nao nao nhớ, mà ngây ngây buồn
Cho tôi bỗng mến, bỗng thương
Nẻo vào chốn đó, con đường có xa?
Ân cần chuốc rượu vì hoa
Xứ thần tiên ấy hẳn là rất thơ
Buông chèo theo lối trăng khuya
Khách tài tình vốn đi, về tìm nhau!...

Nhà thơ Ngân Giang như nhiều người biết là một trang nữ lưu tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời bà gặp nhiều trắc trở, đúng với câu “hồng nhan đa truân, tài mệnh tương đố”. 

Thân phận truân chuyên của nữ sĩ đã được chính bà khắc họa thật rõ nét trong thơ mình. Bài thơ Tâm trạng với những câu thơ Đường luật chặt chẽ về niêm luật và đối xứng thoáng đạt đã khắc họa rất chân thực những cảm xúc nỗi niềm của một người đàn bà đa đoan, đa cảm:

Ngày chửa sang thu đã thấy buồn
Tình chưa ngời sáng đã hoàng hôn
Thân không trời đất, mà mưa gió
Lòng chẳng binh đao, cũng chiến trường

Hiếm có một tiếng thơ nữ nào thể hiện một giọng thơ thảng thốt và đầy khí phách đến như vậy. Những dòng thơ đầy tâm trạng ấy đã vận vào đời Ngân Giang như một nỗi ám ảnh định mệnh. 

Trong cuộc đời đắng cay, nước mắt nhiều hơn nụ cười, có những lúc cùng đường tuyệt vọng. Ngân Giang đã toan tìm đến cái chết. Nỗi niềm cay đắng ấy đã được bà bộc lộ rất thành thật:

Đời bạc đã toan liều mệnh bạc
Nghĩa thâm khôn dứt với tình thâm

Cả những nỗi trớ trêu, nghịch cảnh trong thân phận mình cũng hiện rõ trong những lời thơ xót xa, cay đắng:

Mẹ theo chồng mới, cười như mếu
Con nhớ cha xưa, khóc ngỡ đùa

Đến những năm 70 của thế kỉ trước, Ngân Giang lui về sống ở bãi Nghĩa Dũng ven sông Hồng. Lúc này tuổi cao, sức yếu, Ngân Giang mở một quán bán nước chè để kiếm sống qua ngày. Cảnh nghèo túng, nỗi cô đơn hiu hắt cũng đã được bà diễn tả qua những câu thơ thật đến nhói lòng:

Một quán bên sông cuối phố nghèo
Miếng trầu, bát nước có bao nhiêu
Sự đời hay dở khoan bàn đến
Lá rụng quanh thềm gió hắt hiu

Gánh nặng cơm áo trĩu đôi vai gầy của người đàn bà tài sắc mà đa đoan lận đận, nó in dấu khổ đau trong tâm hồn và trên thể xác:

Mười năm quét lá bên sông
Hình hài để lại cái còng trên lưng
Điều đáng nói là trong hàng trăm bài thơ khắc họa về nỗi cô đơn và sự nghèo túng nhưng mỗi bài một vẻ, một cách diễn đạt khác nhau. Xâu chuỗi lại, người ta vừa xót thương, vừa cảm phục, không hiểu bà lấy đâu ra sức lực và lòng kiên nhẫn để hứng chịu và vượt lên tình cảnh đó.

Suốt cuộc đời mình, nữ sĩ Ngân Giang đã “vịn câu thơ mà đứng dậy”. Bà say mê tâm huyết với thể thơ Đường luật. Thể thơ vốn trang trọng, đài các này đã song hành với cuộc đời nhiều cay đắng, lắm gian nan, nhưng cũng không ít tài hoa, chói sáng. Có lẽ nữ sĩ Ngân Giang cũng đã cảm nhận được điều đó khi tổng kết về đời thơ mình:

Ôi một đời thơ, xót luật Đường
Lênh đênh hoa dạt sóng muôn phương
Điệu tỳ lỡ dịp, tơ dang dở
Là một tài hoa mấy đoạn trường

Từ tập thơ Giọt lệ xuân ra đời năm Ngân Giang 16 tuổi cho đến những bài thơ viết lúc cuối đời, thơ của nữ sĩ là những Tiếng vọng sông Ngân còn vang mãi trên thi đàn nước Việt.

Đã muốn gác bút, nhưng rồi...

So với các nữ sĩ cùng thời như Anh Thơ, Hằng Phương…, cuộc sống riêng tư của Ngân Giang trắc trở hơn nhiều.

Trắc trở, ngơ ngác ngay từ khi đầu xanh tuổi trẻ: "Con lên hai, mẹ hai mươi/ Ngơ ngác buồn tênh giữa cuộc đời/ Gió táp, mưa lầm… ôi giá lạnh/ Đường về, biết sẽ hỏi thăm ai" (Đường về).

Cho đến khi bạc đầu: "Còm cõi bên sông tóc úa dần/ Tay nâng chén nước, lệ đầy khăn" (Quán mưa bãi vắng).

Đã có lúc trong quẫn bách, tuyệt vọng, Ngân Giang định gác bút. Nhưng tình yêu thơ ca không cho phép bà dừng lại. Đây chính là khả năng vượt lên số phận, là bản lĩnh xuyên qua nghịch lý để có một Ngân Giang nữ hoàng Đường luật sánh với ông hoàng Đường luật Quách Tấn của Mùa cổ điển.

Thật khó hình dung trong cảnh sống khốn khó, ngặt nghèo của gánh nặng cơm áo gạo tiền mà gia tài thi ca của Ngân Giang lên tới 4 nghìn bài, mà đặc sắc nhất là những bài thơ Đường luật.

Với nhiều người, thơ Đường luật đã qua thời hoàng kim và trở nên nhạt màu từ sau thời Thơ mới, nhưng với Ngân Giang, đây là thể thơ giúp bà diễn tả mọi cung bậc cảm xúc, mọi chìm nổi, sóng gió đời mình một cách thuận tay nhất. Dường như những phép tắc từ chương, niêm luật gò bó, rắc rối không hề cản trở hoa tay người viết. Đường luật đã thực sự trở thành máu thịt của bà.

Điều đó làm cho người đọc mỗi khi nghĩ đến Ngân Giang lại mường tượng thấy dường như một tài nữ đâu đó trong trong cõi vời vợi của không gian vang bóng một thời nay trở về trú ngụ trong cuộc đời lắm nỗi truân chuyên này.

Thực ra việc xuất hiện quá nhiều trong thơ Ngân Giang những sầu hận, buồn tủi, cô đơn, uất hận đã phần nào làm hạn chế sức tung phá của ngòi bút. Thậm chí, sáo mòn! Nhưng chính sự lặp đi lặp lại của các mô típ đó đã khiến cho người đọc hiểu sâu kỹ hơn bản sắc tâm hồn Ngân Giang, thấy rõ hơn những nỗi niềm thân phận đời bà. Nỗi buồn bủa vây suốt đời bà  như định mệnh khó gỡ.

Vào năm 1987, khi đã 71 tuổi, Ngân Giang vẫn còn đau đáu vì một điều bất thành nào đó: "Nắng mưa mấy độ bao chờ đợi/ Một kiếp là thôi một kiếp sầu" (Cảm thán).

Bốn nghìn bài thơ là hàng nghìn mảnh vỡ của một tâm trạng buồn sầu. Tuy nhiên con số mấy nghìn bài thơ Đường luật kia chỉ có ý nghĩa như những con số nói lên tâm huyết và sự bền chí trong sáng tạo nghệ thuật của bà. Cái quan trọng nhất để Ngân Giang mãi còn trong lịch sử văn học chính là Trưng Nữ Vương (1939) ra đời trong những phút xuất thần không lặp lại.

Sở dĩ Trưng Nữ Vương thuyết phục được cả những người đọc khó tính nhất bởi ở đó có sự hòa quyện, ngân vang của hai nguồn cảm xúc song hành: chất giọng sử thi và cái chơi vơi, cô đơn của tâm trạng. Bài thơ đã thể hiện được một cách tài hoa tầm vóc, khí phách của một vị anh hùng giàu nữ tính: "Ngang dọc non sông đường kiếm mã/ Huy hoàng cung đện nếp cân đai".

LƯU KHÁNH THƠ
Theo ANTG

XEM BÀI KHÁC:



Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2019

TRƯƠNG ANH QUỐC - NHỮNG CÂU VĂN ĐƯỢC VỚT LÊN TỪ BIỂN

"Sóng biển rì rào" được nhà văn Hồ Anh Thái đánh giá cao, khi ông cho rằng: "Trương Anh Quốc có lối dẫn truyện độc đáo và nhiều bất ngờ. (…) Bất ngờ mà hợp lý, điều ấy bao giờ cũng đòi hỏi sự lành nghề văn chương. Hiếm có nhà văn nào ở ta viết được một tác phẩm đậm đặc chất "viễn dương", tươi nguyên và hấp dẫn như thế này"...
Nhà văn Trương Anh Quốc

1. Trương Anh Quốc là trường hợp có duyên khi đến với văn chương. Sinh năm 1976, so với các tác giả thuộc thế hệ 7X thì anh xuất hiện muộn hơn. Nhưng ngay tác phẩm đầu tiên đã "ghi bàn" ấn tượng với Giải Nhì Cuộc vận động sáng tác văn học tuổi 20 lần thứ III (năm 2005) cho tập truyện "Sóng biển rì rào". Văn học tuổi 20 là giải thưởng văn học uy tín giữa thời buổi loạn các cuộc thi và loạn giải thưởng hiện nay, là nơi từng vinh danh các nhà văn như Nguyên Hương, Phan Triều Hải, Trang Hạ, Vũ Đình Giang, Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Ngọc Tư, Phong Điệp, Nguyễn Thị Thanh Bình… v.v…

"Sóng biển rì rào" được nhà văn Hồ Anh Thái đánh giá cao, khi ông cho rằng: "Trương Anh Quốc có lối dẫn truyện độc đáo và nhiều bất ngờ. (…) Bất ngờ mà hợp lý, điều ấy bao giờ cũng đòi hỏi sự lành nghề văn chương. Hiếm có nhà văn nào ở ta viết được một tác phẩm đậm đặc chất "viễn dương", tươi nguyên và hấp dẫn như thế này".

Năm năm sau, vẫn là Cuộc vận động sáng tác văn học tuổi 20, anh lại gây bất ngờ khi tiếp tục dự thi và về Nhất với tiểu thuyết "Biển". Giải Nhất này từng gây tranh luận nho nhỏ trong giới viết lách, nhưng nhận định của nhà văn Chánh chủ khảo cuộc thi lần IV như bảo chứng cho "Biển": "Một lối viết rất trầm tĩnh, không hề to tiếng, nhẹ nhàng, đến như rủ rỉ, có cả nụ cười mỉa mai mà nhân hậu, cứ như thong thả kể chuyện chơi, hết chuyện này tới chuyện khác, không cần thắt không cần mở, không cần cái được gọi là cao trào, hầu như chẳng cần quan tâm mấy đến một đường dây xâu chuỗi kết nối toàn tác phẩm. Tôi nghĩ đó là một cách viết cao tay: bởi cuộc sống thật vốn là vậy đó, thế giới được kết chặt với một bề ngoài trông chừng rất rời rạc, cuộc sống là tất yếu một cách trông chừng như rất ngẫu nhiên".

Tiếp đấy, Trương Anh Quốc giành giải Nhì cuộc thi truyện ngắn trên báo Sài Gòn Giải Phóng. Rồi gần đây là giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhiều người nói, anh "sát giải", viết không nhiều, nhưng đụng đâu thắng đấy. Văn chương là vậy. Tài năng và lao động thật cần thiết. Nhưng chỉ là điều kiện cần. Phải thêm cái duyên nữa mới thành điều kiện đủ. Mà duyên thì ở ngoài mình. Duyên có chọn mình hay không có… trời biết. Ở đây, ông trời đã dẫn duyên xuống gặp Trương Anh Quốc.

2. Sinh ra và lớn lên ở huyện miền núi Quế Sơn, Quảng Nam, ngay từ nhỏ Trương Anh Quốc đã ôm mộng được đi xa, càng xa càng thích. Nên chàng trai mới lớn chưa một lần ra khỏi huyện chọn trường Đại học Hàng Hải để gửi gắm ước mơ của mình. Với tấm bằng kỹ sư điện trong tay, Trương Anh Quốc hăm hở bước vào nghề thủy thủ trên các chuyến tàu viễn dương. Anh đã đi qua tất cả các đại dương và đặt chân đến 40 quốc gia trên thế giới. Và biển không chỉ biến ước mơ của Trương Anh Quốc thuở thiếu thời thành hiện thực mà còn mở ra cho anh chân trời mới, chân trời chữ nghĩa, chân trời văn chương.

Nếu như biển mang đến nguồn hải sản, nguồn tài nguyên dầu khí cho các quốc gia, mang đến con đường thông thương lớn nhất cho nhân loại, thì với riêng Trương Anh Quốc, biển còn mang đến chất liệu cho những trang văn. Đọc tác phẩm của Trương Anh Quốc, cảm giác như các câu văn được anh vớt lên từ biển, tươi rói và hấp dẫn. Không có biển, chắc chắn sẽ không định hình một nhà văn Trương Anh Quốc như hiện nay.

Trước giờ, văn chương Việt chưa thấy tác phẩm nào viết trực diện về biển, trừ tiểu thuyết "Biển và chim bói cá" của nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Nhưng vẫn là biển gần bờ. Ngoài ra, nếu có viết về biển thì chỉ là… nhìn ra biển chứ không phải cưỡi lên biển mà viết. Riêng Trương Anh Quốc rong ruổi khắp thế giới, trên biển. Biển thời hội nhập quốc tế. Vậy nên nói anh độc quyền, "bành trướng" trên biển với trang văn cũng không ngoa. Biển chính là sân nhà của anh. Và mình anh một sân. Chẳng ai cạnh tranh.

Văn của Trương Anh Quốc là thứ văn điềm tĩnh. Như thể anh quen ăn sóng nói gió từng trải khắp các đại dương rồi nên chẳng có gì khiến anh vội vàng. Kể cả mạch văn. Thời đại công nghệ, liệu thứ văn chầm chậm có dễ gây chán ngán? Không. Trương Anh Quốc có thứ khác bù lại khiến người đọc không bị "đứt gánh giữa đường". Là câu văn có mật độ dày các ý bật tanh tách, nạp thêm thông tin bên lề hoặc trình ra lối nghĩ khác với thông thường. Chẳng biết điều này có phải bắt nguồn từ tính cách "Quảng Nam hay cãi" của tác giả không? Nhưng lối diễn đạt này tạo cảm giác hào hứng và kích sự tò mò cho người đọc trong quá trình tiếp cận tác phẩm.

3. Đi tàu viễn dương, mỗi khi tàu cập cảng, việc đầu tiên của Trương Anh Quốc là lên đất liền tìm Internet hoặc trạm điện thoại để liên lạc với bạn bè, người thân, hỏi thăm tình hình mọi người. Sau đấy tranh thủ khám phá đất nước sở tại trong khoảng thời gian cho phép.

Nếu tàu cập cảng trong nước thì Trương Anh Quốc gặp bạn văn chương. Lúc Hải Phòng. Khi Đà Nẵng. Hay Sài Gòn. Hoặc Vũng Tàu. Ngoài gặp gỡ bạn, việc khác nữa chẳng khi nào anh quên, là sục sạo các nhà sách. Trương Anh Quốc về nước là nhờ bạn bè tư vấn các đầu sách mới đáng chú ý cần đọc để lập tức cập nhật. Sách là thứ anh luôn nhớ trang bị trước khi tàu nhổ neo. Để trên tàu, khi đồng nghiệp giải trí bằng việc xem tivi hoặc ngồi canteen thì anh lại đóng cửa phòng riêng đọc sách, hoặc tranh thủ viết lúc sóng biển ngủ quên không gây gổ với thân tàu.

Trương Anh Quốc sống giản dị, có phần xuề xòa. Anh nhiệt tình với bạn bè. Đúng kiểu dân "phượt" xuyên lục địa. Với lối nói chuyện tếu táo ngang như cua, trống người ta đánh xuôi anh sẽ thổi kèn ngược, cốt cho mọi người cười, vậy nên ngồi với anh chẳng bao giờ lo nhàm chán hoặc buồn tẻ.

4. Ba năm nay Trương Anh Quốc không đi tàu nữa. Anh chuyển qua làm cho một công ty dịch vụ dầu khí. Đều đặn xen kẽ 4 tuần ngoài giàn khoan 4 tuần nghỉ trong bờ. Vẫn là biển. Chỉ khác là trước lên tàu đi khắp thế giới, giờ lên máy bay trực thăng ra giàn khoan. Tôi nói, anh chọn việc khéo quá, làm 1 tháng lại có 1 tháng nghỉ vi vu nạp nguyên liệu viết hoặc ngồi nhà viết văn.

Từ ngày Trương Anh Quốc chuyển việc, tôi gặp anh thường xuyên hơn. Thường trước khi anh ra giàn khoan hoặc từ giàn khoan về bờ anh em lại ngồi với nhau rồi anh mới ngược Sài Gòn về với vợ con. Có thể là quán nào đó bên bờ biển hoặc cửa sông hay trong con hẻm nhỏ. Uống ly cà phê hoặc ly bia lấy cớ cho vài câu chuyện xoay quanh việc viết lách, bạn bè văn nghệ.

Nhiều người hỏi Trương Anh Quốc làm gì cho hết 4 tuần trên bờ? Xin thưa lúc thì anh ở Tây Bắc. Lúc Đông Bắc. Khi về quê thăm hai bên nội ngoại. Hoặc đi Tây Nguyên. Trương Anh Quốc ham đi. Đi trên biển đủ rồi đến đi trên bờ, khám phá dọc dài đất nước. Nhiều khi anh nhắn tin hoặc nhắn tin hỏi anh, lại thấy nói đang ở một vùng xa lơ xa lắc. Vậy là biết anh đang bồi bổ mắt và nạp năng lượng cho trang viết rồi. Viết văn mấy người được như anh!

Ngoài tập truyện "Sóng biển rì rào" và tiểu thuyết "Biển", Trương Anh Quốc còn 2 tập truyện ngắn khác là "Lũ đầu mùa" và "Hợp đồng chiều thứ Bảy". Ở 2 tập truyện này, có một số truyện anh trở về với… đất liền. Nhưng có vẻ anh thuộc về biển. Những câu văn phải được vớt lên từ biển mới đúng là Trương Anh Quốc. Chả thế mà khi đọc truyện ngắn không dây mơ rễ má gì với biển của Trương Anh Quốc, nhà văn Hồ Anh Thái đã khuyên anh hãy trở về với biển của mình.

Bây giờ thì Trương Anh Quốc vẫn ở biển. Nhưng trên giàn khoan. Đây là mảng đề tài chưa nhà văn nào chạm tới một cách rốt ráo. Anh lại ở vị trí độc tôn. Chẳng ai viết văn có đủ điều kiện nhảy ra giàn khoan đấu với anh. Tôi nói: Anh tập trung làm một nhát tiểu thuyết nữa về chuyện ngoài giàn khoan đi, sẽ nổi bần bật còn hơn ánh lửa pha - ken trên giàn. Trương Anh Quốc cười. Cái cười của anh tôi phiên dịch ra là: Chờ nhé. Vâng. Tôi đang chờ. Tôi biết anh dư sức làm được, làm ra ngô ra khoai, như anh từng làm với nguyên liệu từ nghề thủy thủ của mình. Và ở đấy, vẫn là những câu văn được vớt lên từ biển, tươi rói và hấp dẫn.

VĂN THÀNH LÊ
Nguồn: VNCA

XEM BÀI KHÁC:



Thứ Tư, 28 tháng 8, 2019

NGUYỄN QUANG SÁNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC VĂN CHƯƠNG

Hy sinh từng ngày trong cuộc sống để giữ gìn nhân cách, để bám giữ và tiến vượt lên trong nghề là điều không dễ, đòi hỏi một tầm nhìn lớn, can đảm lớn. Nguyễn Quang Sáng đã trọn đời cùng nghề viết văn, trọn đời là một chiến sĩ, một người dân yêu nước, một Tài tử Nam Bộ...
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng sau khi hưởng trọn cái Tết lần thứ 82 của mình, đã chọn đêm trước hôm rằm - Rằm tháng Giêng Giáp Ngọ để nhẹ bước tiên du vào miền tịch diệt.

Trong nỗi đau buồn gần như đến tận cùng, con trai nhà văn, đạo diễn điện ảnh Nguyễn Quang Dũng viết: "Kết thúc một chặng đường. Ba tôi - nhà văn Nguyễn Quang Sáng - đã chia tay gia đình tôi. Ba đến nơi gặp những bạn bè thân - chú Trịnh Công Sơn, chú Bảo Phúc... Chúc ba vui vẻ nơi ấy! Má và các con yêu ba! Cảm ơn thượng đế cho con được là con của ba".

Người ta nói "cái quan định luận", nghĩa là đóng nắp quan tài xong mới có thể bàn được về người đó. Song, với nhiều người có thể "định luận" ngay khi còn sống. Với hàng chục truyện ngắn và tiểu thuyết, hàng chục kịch bản điện ảnh đoạt nhiều giải thưởng, trong đó có Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt hai - 2000), ông được đánh giá là một trong những nhà văn hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại. Riêng tôi muốn gọi ông là "Nhà văn Nam Bộ" không chỉ bởi tác phẩm của ông lấy bối cảnh Nam Bộ, giọng điệu Nam Bộ, "không có cái nhàn nhạt chữ nghĩa dùng cho miền nào cũng được - Tô Hoài", mà các tác phẩm ấy còn mang đậm tính cách Nam Bộ: đã yêu thích cái gì, tin tưởng cái gì, thì tin, yêu đến tận cùng.

Tôi được gặp Nguyễn Quang Sáng không nhiều, chủ yếu trong các kỳ đại hội (ÐH) Hội Nhà văn. Trước đây, tôi thường đứng xa xa với thái độ "kính nhi viễn chi", có hỏi han điều gì cũng thưa gửi rón rén nên ông cũng không cởi mở nhiều. Tính ông càng về già càng lặng lẽ. Nhưng trong kỳ ÐH VIII Hội Nhà văn Việt Nam (2010) tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ông bỗng gần gũi hơn. Hai chú cháu còn chụp ảnh chung với nhau, nói chuyện nhiều hơn về người và nghề cầm bút. Nghe tin ông mất, hình ảnh một già Sáng đeo túi chéo, chầm chậm, lặng lẽ dọc hành lang hội trường, đôi mắt đắm ướt tình người bỗng long lanh khi gặp ai đó nhưng rồi cũng bất chợt xa xăm lại hiện lên trong tôi một cách rõ rệt, nao lòng! Tôi tự trách mình đã thật khờ khạo khi không biết cách gần ông thêm nữa, để được nghe từ ông những điều không dễ có trong đời. Mỗi nghệ sĩ lớn là một thế giới kỳ diệu, độc đáo. Tác phẩm của họ làm giàu hồn ta; gần bên họ được sáng trí ta. Tôi đã được gặp nhiều nghệ sĩ lớn, đã được bước trong những thế giới kỳ diệu đó, mà khi họ còn sống, đâu đã biết hết giá trị, nên bây giờ tiếc nuối khôn nguôi. Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Xuân Diệu, Huy Cận, Quang Dũng, Nguyên Hồng, Nguyễn Ðình Thi, Nguyễn Tuân, Lưu Quang Vũ, Hữu Loan, Phạm Tiến Duật, Hoàng Cầm... Tôi cứ lẩn thẩn nghĩ rằng, cái họ mang đi còn nhiều hơn rất nhiều cái họ để lại cho đời!

Nguyễn Quang Sáng (từng lấy bút danh là Nguyễn Sáng, sau để tránh trùng tên với danh họa Nguyễn Sáng nên lại dùng tên Nguyễn Quang Sáng), cầm bút từ năm 1952. Truyện ngắn đầu tiên được in là Con chim vàng (Báo Văn nghệ, 1956), và trở thành hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957. Năm 1959, ông giật hai giải truyện ngắn Ông Năm Hạng của Báo Thống Nhất và Tư Quắn của Văn nghệ quân đội. Ấn tượng nhất trong thời kỳ đầu ấy là Ðất lửa, cuốn tiểu thuyết đậm chất Nam Bộ và chất điện ảnh viết về quê hương ông những ngày chống Pháp. Các giải thưởng khác là Mùa gió chướng (Kịch bản phim, Bông sen bạc Liên hoan phim (LHP) toàn quốc 1980); Cánh đồng hoang (Kịch bản phim, Bông sen vàng LHP toàn quốc 1980, Huy chương vàng LHP quốc tế Mát-xcơ-va 1981); Dòng sông thơ ấu (Giải thưởng văn học thiếu nhi Hội Nhà văn (HNV) 1985); Con mèo của Fujita (Giải thưởng HNV 1993)...

Viết trong Kỷ yếu Nhà văn Việt Nam hiện đại (2007), Nguyễn Quang Sáng tự vấn rằng, mình có nhiều chục năm cầm bút, nhiều giải thưởng nhưng vẫn luôn tự hỏi "mình đã thật là nhà văn hay chưa"? Ðó là một tự vấn nghiêm khắc và ông nói rằng, bằng tác phẩm, ông đã, đang và sẽ trả lời điều đó.

Ông đã là nhà văn hay chưa? Xin thưa với hương hồn ông, chỉ với Chiếc lược ngà và Cánh đồng hoang, ông đã là một nhà văn lớn, ảnh hưởng của ông đã vượt khỏi biên giới nước nhà. Chiếc lược ngà được viết năm 1966, nhanh chóng được đưa vào giáo khoa và làm xúc động bao thế hệ học trò. Cánh đồng hoang (công chiếu lần đầu ngày 30-4-1979) với kịch bản của Nguyễn Quang Sáng, với đạo diễn tài năng Hồng Sến, âm nhạc Trịnh Công Sơn, diễn viên Lâm Tới, Thúy An, đã trở thành bộ phim kinh điển của nền điện ảnh Việt Nam.

Có người nói Nguyễn Quang Sáng là nhà văn Nam Bộ biết kể chuyện một cách giản dị và xúc động. Tôi đặc biệt thích lối văn kể chuyện giản dị ấy mà chỉ người dân thường hoặc tài năng lớn mới có thể làm được. Nhưng những chi tiết đắt giá, sự bất ngờ dồn dập, sự khái quát thần diệu, chất điện ảnh và đặc trưng Nam Bộ đến từng dáng điệu, lời thoại là những đặc điểm khác làm nên phong cách của Nguyễn Quang Sáng.

Tôi đã học được ở ông những bài học văn chương quý giá. Trong nhiều bàn trà cũng như trong diễn đàn chính thức, Nguyễn Quang Sáng là người đồng tình với quan điểm, nghệ thuật muốn có "tính" gì cũng được, nhưng phải có "tính hay". Ông không phản đối các nhà lý luận khi nói về chân, thiện, mỹ; về chuyện đáp ứng đòi hỏi của bạn đọc nhưng lại có cách nghĩ riêng rất thú vị. Theo ông, nhà văn nước ngoài không viết theo nhu cầu của bạn đọc Việt Nam nhưng ta đọc vẫn thấy hay. Văn chương có ba ràng buộc, cũng là ba phẩm chất: Buồn - Ðau và Ðẹp. Làm thế nào để hay? Ông nói, tác phẩm như lời ru của lòng mẹ, cứ thế mà hay. Ông nói thêm, phải viết cái gì thật tự nhiên, thật sâu trong lòng mình, viết cái mình rành thì trúng, cái mình không rành thì trật, trước sau gì cũng hỏng.

Theo cách nghĩ học trò, có lần tôi từng hỏi ông về lý tưởng, quan niệm thẩm mỹ; vai trò của nó đối với sáng tạo tác phẩm, ông hơi ngơ ngác rồi nói: "Chú cứ coi cuộc đời tui thì biết"! Cuộc đời ông là gì? Là một Nguyễn Quang Sáng chiến sĩ rồi sau đó mới là một Nguyễn Quang Sáng nhà văn. Ông sinh năm 1932 tại thị trấn Mỹ Luông, Chợ Mới, An Giang trong một gia đình giàu có. Ba má ông có tiệm vàng và xe hơi. Yêu lý tưởng, yêu sự tốt đẹp của cách mạng, năm 1946 ông xung phong vào bộ đội, rồi tập kết ra bắc năm 1954 với quân hàm chuẩn úy. Từ đó ông chuyển ngành sang Ðài Tiếng nói Việt Nam rồi các cơ quan của Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1966, ông tình nguyện vào chiến trường để đấu tranh thống nhất nước nhà bằng cây súng và ngòi bút, để được sống giữa những người thân yêu, giữa xóm làng và bưng biền thân thuộc, dù biết rằng cái sự dấn thân ấy chính là dấn thân đến cái chết bất cứ lúc nào. Cho đến năm 1972 ông mới ra Bắc, và sau năm 1975, ông về ở hẳn miền Nam, bên cạnh chức vụ Phó Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, ông làm Tổng Thư ký Hội Văn nghệ TP Hồ Chí Minh trong nhiều khóa, góp phần đặc biệt to lớn trong việc xây dựng phong trào văn nghệ ở thành phố mang tên Bác nói riêng và Nam Bộ nói chung trong những ngày đầu giải phóng.

Những tác phẩm lớn của ông chủ yếu được hình thành trong những ngày "xáp vô" trong cuộc chiến đấu lớn của bộ đội và nhân dân ta ở miền Nam; nhặt được những "hạt vàng" từ cuộc sống. Năm 1966, nhà văn chợt thấy và "găm" vào đầu cảnh trực thăng Mỹ - ngụy bắn người dân ở Ðồng Tháp Mười mùa nước nổi; người lớn thì lặn sâu xuống khi bị bắn. Trẻ em thì cho vào túi ni-lông, người lớn lặn phải kéo theo... Ðó cũng là một trong những chi tiết nói lên sự ác liệt đến tận cùng của chiến tranh. Chi tiết đó, đến hơn mười năm sau mới được viết thành kịch bản phim Cánh đồng hoang. Cánh đồng hoang là bộ phim có tính khái quát cao. Cuộc đọ sức giữa một bên là vợ chồng Ba Ðô và đứa con nhỏ mới sinh trơ trọi giữa mùa nước nổi mênh mông và một bên là trực thăng Mỹ đầy hỏa lực săn đuổi rát rạt. Căng thẳng từng giây một khi kẻ thù quyết sát hại và nhân văn từng giây một khi con người Việt Nam quyết bảo vệ sự sống đến cùng. Kết cục, Ba Ðô chết nhưng bất ngờ, bằng khẩu súng trường, lòng căm thù, cái kỳ diệu của sự sống, vợ Ba Ðô đã nhặt lấy súng của chồng và bắn rớt chiếc trực thăng. Từ túi áo của viên phi công Mỹ, rơi ra tấm ảnh vợ con hắn, một chi tiết đầy hàm nghĩa, đẩy tác phẩm lên một tầm cao nữa trong tố cáo chiến tranh, trong giá trị nhân văn; một kết thúc mở để cả đời sau còn suy nghĩ...

Nếu truyện ngắn Chiếc lược ngà chỉ viết trong một đêm, thì kịch bản này cũng chỉ viết trong một tuần, bắt đầu từ đêm 18-12-1978, đêm nhà văn đưa vợ đi đẻ. Người con ấy chính là đạo diễn điện ảnh Nguyễn Quang Dũng bây giờ. Cả hai đứa con được sinh hạ trong những ngày ấy đều nổi tiếng.

Phải rành và chín trong nghề văn là vậy. Nhưng cái điều sâu xa hơn mà tôi cảm nhận được là, nhà văn sẽ không viết được gì nên hồn nếu không gắn bó với cuộc sống, biết "mò lặn" mà tìm "quặng quý" trong đời. Và phải học, tự học suốt đời. Tôi là "cậu ấm" - ông nói, nhưng chỉ học đến lớp bảy. Ði theo cách mạng, được học thêm văn hóa. Rồi mình lại tự học. Năm 1963, đạo diễn Mai Lộc nói văn tôi có chất điện ảnh. Hồi đó tôi chưa ý thức hết. Sau này được đặt hàng viết kịch bản phim, tôi mới chăm chú đi rạp xem. Hết ngày này sang ngày khác. Hết phim này sang phim khác. Tự cắt nghĩa sao trường đoạn ấy nó hay, nó xúc động. Cứ học lỏm thế thôi, nhưng mà học thật, tin thật...

Và điều cốt yếu nhất là phải biết hy sinh. Hy sinh tính mạng là mất mát lớn nhất, nhưng lựa chọn nó không phải là khó khăn nhất. Hy sinh từng ngày trong cuộc sống để giữ gìn nhân cách, để bám giữ và tiến vượt lên trong nghề là điều không dễ, đòi hỏi một tầm nhìn lớn, can đảm lớn. Nguyễn Quang Sáng đã trọn đời cùng nghề viết văn, trọn đời là một chiến sĩ, một người dân yêu nước, một Tài tử Nam Bộ...

NGUYỄN SĨ ÐẠI
Nguồn: Nhân Dân

XEM BÀI KHÁC:

·         TIẾNG NƯỚC TA


Thứ Ba, 27 tháng 8, 2019

CÁI ĐẸP CỦA THIÊN NHIÊN VÀ PHONG CẢNH TRONG CA DAO TRUYỀN THỐNG

Gành Đá Đĩa ở Phú Yên
Tóm tắt:

Tình yêu thiên nhiên, trong đó có tình yêu cái đẹp của thiên nhiên, phong cảnh là một nét nổi bật trong tính cách người Việt. Qua ca dao chúng ta thấy đối với người dân quê, cảnh đẹp là cảnh có núi có sông, có sơn có thủy , sơn thủy hài hòa, núi sông uốn lượn mềm mại, cảnh vật luân chuyển, hoạt động, tràn đầy sinh khí và sức sống nhưng cũng đầy tình tứ, gắn bó tương thông với con người. Cảnh đẹp ấy bên cạnh hình dáng uyển chuyển và tươi tắn, hữu tình, còn là tượng trưng của ấm no, hạnh phúc. Trong thẩm mỹ của người dân quê, cái đẹp và cái có ích không loại bỏ nhau mà gắn chặt với nhau.

Rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên là một bộ phận trong kinh nghiệm thẩm mỹ của con người. Tìm hiểu những rung động ấy qua ca dao truyền thống cũng là một cách tiếp cận bản sắc văn hóa của người Việt.

Mỗi dân tộc tồn tại đều có diện mạo riêng của mình. Diện mạo ấy thường bộc lộ rõ rệt nhất trong văn hóa, tức là trong cách sinh hoạt, cách ứng xử của con người trong quan hệ với chính mình, với tự nhiên và với xã hội. “Văn hóa là hệ thống ứng xử của con người với thiên nhiên và xã hội, trong hoạt động sinh tồn và phát triển của mình” (Hà Văn Tấn) (1). Trong diện mạo ấy có những nét độc đáo, chỉ riêng dân tộc có, nhưng cũng có những nét giống hoặc gần gũi với các dân tộc khác. Nghiên cứu diện mạo hay bản sắc văn hóa dân tộc trước hết không phải đi tìm cho được nét khác biệt của dân tộc mình với dân tộc khác, vì điều này đòi hỏi sự hiểu biết rất lớn, mà chính là nhận diện cho được chân dung văn hóa của dân tộc mình, xác định cho được những nét nổi bật đã tạo nên diện mạo văn hóa của dân tộc.

Bản sắc văn hóa của dân tộc được cấu thành từ nhiều yếu tố, trong đó có thị hiếu thẩm mỹ, quan niệm về cái đẹp. Sáng tác dân gian là một căn cứ đáng tin cậy, dựa vào đó có thể nhận ra phần nào đặc điểm ý thức thẩm mỹ của người Việt. Tìm hiểu cái đẹp trong ca dao là một cách tiếp cận, một con đường nhằm đến mục tiêu nhận thức đầy đủ hơn tính cách của người Việt và xa hơn là diện mạo của văn hóa dân tộc.

Trong ca dao truyền thống, chúng ta bắt gặp rất nhiều câu có chữ “Đẹp”:

Mặn nồng một vẻ thiên nhiên
Đất ta cảnh đẹp càng nhìn càng say. (2)

*

Gia Lâm có đất Cổ Bi
Muôn đời cảnh đẹp còn ghi rành rành.

*

Tương truyền đây đất đế kinh
Bao nhiêu cảnh đẹp lừng danh trong ngoài.

*

Chẳng vui cũng thể hội Thầy
Chẳng đẹp cũng thể Hồ Tây xứ Đoài.

*

Giao Tự lắm bãi nhiều doi
Lắm con gái đẹp nhiều nơi phải lòng.

*

Nhất đẹp con gái Bù Nâu
Cứng cỏi Đanh Xá, cơ cầu Quyển Sơn.

*

Gái Dự Quần đẹp như hoa lí
Trai thanh tân có ý mà theo.

Nếu coi chữ “Đẹp” đồng nghĩa với chữ “Xinh” thì số lượng những câu ca dao dạng này còn tăng lên rất lớn:

Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.

    *

Nhất quế nhị lan
Nhất xinh, nhất lịch khôn ngoan trăm chiều.

*

Gặp em thấy khéo miệng cười
Thấy xinh con mắt, thấy tươi má hồng.

Có thể nói cái Đẹp là một cảm hứng lớn trong thơ ca trữ tình dân gian người Việt. Cuộc sống lao động cực nhọc, vất vả không làm thui chột cảm xúc thẩm mỹ của người dân quê, không làm mất đi những rung động về vẻ đẹp của cảnh vật và con người bắt gặp hằng ngày. Rung động ấy có khi bột phát thành tiếng kêu vui:

Do Xuyên đẹp lắm ai ơi
Có về chỗ đó cho tôi về cùng.

Nhưng nhiều khi chỉ thể hiện trong cái nhìn trìu mến, yêu thương với cảnh vật:

Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.

*

Nhác trông phong cảnh vui thay
Báo Bồng có phải chốn này hay không.

Trong hoàn cảnh đất nước nông nghiệp lạc hậu, thiên tai đe dọa, làm không đủ ăn, đói no thất thường, đời sống lao động một nắng hai sương, giữ cho được cái nhìn yêu đời và những rung động vô tư như vậy quả thật đáng quý. Đó phải chăng cũng là một nét tính cách của người Việt? Phải chăng tình yêu cái đẹp ấy là một trong những cội nguồn của sự mến mộ văn chương của người Việt, nhất là đối với thơ ca, sự mến mộ mà Nguyễn Bỉnh Khiêm thì gọi là “bệnh yêu thơ” không chữa được, còn Ngô Thì Sĩ thì gọi là bệnh “nghiện thơ” và chính điều đó đã làm cho nước ta thành “một nước thơ” như lời Ngô Thì Nhậm nói khi bàn thơ với Phan Huy Ích (3). Phải chăng tình yêu cái đẹp ấy có khi đã dẫn đến việc tạo ra nét “văn chương phù hoa” trong tính cách người Việt, như nhận xét của Đào Duy Anh?(4).

Trong ca dao, những cảm xúc về cái đẹp bắt nguồn trước hết từ bức tranh thiên nhiên và phong cảnh. Có rất nhiều câu chữ “Đẹp” đi liền với “Cảnh”:

Vọng Phu cảnh đẹp núi Nhồi
Có người chinh phụ phương trời đăm đăm.

*

Đường nào vui bằng đường Thượng Tứ
Cảnh mô đẹp bằng núi Ngự, sông Hương.

Cảnh ở đây có thể là cảnh thiên nhiên như hòn Vọng Phu, núi Nhồi, như sông Hương núi Ngự, nhưng cũng có thể là cánh đồng, làng quê, bến nước, con đò, tức là cảnh ở đó tự nhiên và con người gắn với nhau thân thiết, gần gũi:

Thanh Trì cảnh đẹp người đông
Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.

*

Đại Hoàng phong cảnh hữu tình
Của nhiều, đất rộng, gái xinh trai tài.

Cảnh hay phong cảnh đi vào ca dao phổ biến nhất trong bốn trường hợp. Thứ nhất là trong những câu mở đầu (5):

Nước sông Gianh vừa trong vừa mát
Truông Quảng Bình nhỏ cát dễ đi.
Dang tay ngứt đọt từ bi
Cho lòng bên nớ bên ni kết nguyền.

hay:

Trăng lên đỉnh núi trăng mờ
Mình yêu ta thực hay là ghét chơi ?



Thứ hai là trong những câu kể chuyện tâm tình, ở đó cảnh là môi trường gặp gỡ, là nơi tình tự, chờ đợi, nhớ nhung, nơi diễn ra câu chuyện yêu đương:

Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh
Dừng chèo muốn tỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu

*

Đêm khuya trăng lệch trời trong
Muốn trao duyên với bạn sợ lòng mẹ cha
Thứ ba, trong những câu ca giới thiệu về quê hương xứ sở:
Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương…

*

Dạo xem phong cảnh trời mây
Lô, Đà, Tam Đảo cũng quay đầu về.

Thứ tư, cảnh như đối tượng của sự thưởng thức thẩm mỹ:

Gió đưa, đưa lướt chòm thông
Gió bay thông cỗi như lồng bóng ngân
Suối trong leo lẻo trên ngàn
Kìa con chim Phượng soi làm suối trong.

hay:

Ai đi qua phố khoa Trường
Dừng chân ngắm cảnh núi rừng xanh xanh
Dòng sông uốn khúc chảy quanh
Trên đường cái lớn bộ hành ngược xuôi.

Rõ ràng trong trường hợp thứ tư này, thiên nhiên và cảnh vật hiện ra không phải như những đối tượng sở chỉ (reference), ám chỉ hay đưa đẩy, mà là đối tượng của sự chiêm ngưỡng thuần túy. Điều này rất đáng chú ý, nó chứng tỏ ca dao truyền thống không chỉ chứa đựng tâm tư và kinh nghiệm sống ủa người dân quê mà còn thể hiện những rung động thẩm mỹ, tình yêu của họ với cái đẹp của thiên nhiên và cảnh vật xung quanh.

Đặc điểm cơ bản của cảm xúc thẩm mỹ là tính vô tư. Đứng trước một cảnh vật người ta có thể có nhiều cảm xúc khác nhau, nhưng chỉ khi nào cảm xúc thoát khỏi những quan tâm về ý nghĩa hay giá trị thực tế của đối tượng và chỉ tập trung vào hình dáng, màu sắc và sự chuyển động của nó thì cảm xúc đó mới được coi là cảm xúc thẩm mỹ. Trong ca dao chúng ta bắt gặp rất nhiều lần những rung động thẩm mỹ như vậy:

Chiều chiều ra đứng gốc cây
Trong chim bay liệng, trông mây ngang trời
Trông xa xa tít xa vời
Những non cùng nước, những đồi cùng cây.

*

Trời xanh dưới nước cũng xanh
Trên non gió thổi dưới gành sóng xao.

Có điều cần lưu ý là trong ca dao như đã nói ở trên, đối tượng gây nên cảm xúc thẩm mỹ không chì là thiên nhiên mà nhiều khi còn là những cảnh vật do con người tạo nên, gắn bó với đời sống của họ:

Mênh mông biển lúa xanh rờn
Tháp cao sừng sững trăng vờn bóng cau
Một vùng phong cảnh trước sau
Bức tranh thiên cổ đượm màu giang san.

*

Thanh Trì cảnh đẹp người đông
Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.

Điều này hoàn toàn dễ hiểu. Cuộc sống của người nông dân vốn gắn chặt với thiên nhiên, vì vậy vẻ đẹp của thiên nhiên cũng gắn chặt với sinh hoạt của con người. Cái đẹp của phong cảnh có khi là vẻ đẹp của núi, sông, suối khe thuần túy, nhưng nhiều khi là cánh đồng, là bến sông, là con đường người qua lại đông vui. Trong ý thức của người nông dân, cảm xúc thẩm mỹ không phải lúc nào cũng tồn tại độc lập mà thường pha trộn, xen lẫn với những cảm xúc khác, nhất là cảm xúc về cái có ích. Điều này phản ánh rất rõ trong những câu ca dao có chữ “Đẹp” liên quan đến phong cảnh:

Đường về Đông Việt loanh quanh
Đồng xanh làng đẹp như tranh họa đồ.

Vẻ đẹp của quê hương ở đây gắn với cánh đồng lúa xanh hứa hẹn một mùa gặt no ấm, tức là gắn với cảm giác về sự sung túc, với cái có ích.

Sự pha trộn giữa cảm xúc thẩm mỹ và cảm giác về cái có lợi bộc lộ đặc biệt rõ rệt trong những câu thơ về con sông ở làng quê. Một mặt người dân quê rất yêu mến vẻ đẹp của dòng sông với hình dáng uốn cong mềm mại của nó:

Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng…
Hỡi cô thắt bao lưng xanh
Có về Vạn Phúc với anh thì về
Vạn Phúc có cội bờ đề
Có sông uốn khúc có nghề quay tơ.

Trong thị hiếu thẩm mỹ của người Việt, đường cong uyển chuyển này in dấu rất đậm nét:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ…
Sông Tô một dải lượn vòng
Ấy nơi liệt nữ anh hùng giáng sinh
Sông Hồng uốn khúc chảy quanh
Giai nhân tài tử lừng danh trong ngoài.

Mặt khác, vẻ đẹp của con sông có được không chỉ do hình dáng của nó mà còn nhờ chỗ nó có giá trị “tắm mát”.

Làng Chợ đẹp lắm ai ơi
Sông sâu tắm mát trên đồi nương ngô
Vùng Bưởi có lịch, có lề
Có sông tắm mát có nghề seo can
Cô kia thắt bao lưng xanh
Có về Yên Mĩ với anh thì về
Yên Mĩ anh có nhiều tre
Có sông tắm mát có nghề trồng ngô.

Long tự hào của người dân quê về vẻ đẹp của con sông với những đường nét uốn lượn tự nhiên cùng với công dụng tắm mát của nó cũng tương tự như lời khen ngợi cô thôn nữ vừa đẹp người vừa đẹp nết:

Thấy em đẹp nói đẹp cười
Đẹp người đẹp nết, lại tươi răng vàng
Nhất đẹp là gái làng Cầu
Khéo ăn khéo mặc, khéo hầu mẹ cha.

Thẩm mỹ của người Việt xưa là vậy. Cái đẹp vừa có tính độc lập nhưng cũng vừa gắn với cái Lợi, cái Đức. Con sông uốn khúc cũng đẹp, sông tắm mát cũng đẹp, cả hai đều đẹp. Người có làn da trắng cũng đẹp, người nết na cũng đẹp, cả hai đều được khen là Đẹp. Cái đẹp vừa có cái riêng (như là phẩm chất về hình thức) vừa có cái chung (như tổng hợp của cả hình thức và ý nghĩa) – đó là quan niệm về cái đẹp rất phổ biến trong ca dao truyền thống và có lẽ cũng cả trong dân gian nói chung.

Bức tranh thiên nhiên và phong cảnh làng quê là cội nguồn của những rung động thẩm mỹ trong ca dao. Khảo sát sự lắp đi lắp lại của những cảnh vật trực tiếp khơi dậy những cảm xúc ấy, chúng ta thấy có những điểm đáng chú ý sau đây.

Vẻ đẹp của cảnh núi – sông. Trong ca dao, “nước”, “non”, “sông”, “núi” là những từ có tần số xuất hiện rất cao. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì nước ta có địa hình phức tạp, nhiều núi, nhiều sông, núi và sông gắn chặt với đời sống con người, nên núi sông đi vào ca dao nhiều cũng không có gì đặc biệt. Đáng chú ý là ở chỗ, trong nhiều câu ca dao, núi – sông thường đi liền với nhau, tạo nên một phong cảnh gợi cảm xúc thẩm mỹ:

Sông Tuần một dãy nông sờ
Hàm Rồng một dãy lờ mờ núi cao
Vui thay núi thẳm nông sâu
Thuyền đi hai dãy như sao hôm rằm

*

Đường mô vui bằng đường Thượng Tứ
Cảnh mô đẹp bằng cảnh núi Ngự, sông Hương

Có rất nhiều câu ca dao trong đó núi – sông đi với nhau tạo nên một hình ảnh thống nhất về vẻ đẹp của thiên nhiên:

Núi Truồi ai đắp mà cao
Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu.

*

Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa núi Tam Đảo, kìa sông Tam Kì.

Dường như trong cảm thức dân gian, núi chỉ đẹp khi có sông và sông chỉ đẹp khi đi với núi. Sông với núi kết hợp thành một đôi SƠN THỦY như một nguồn cảm hứng của tình yêu hay của lòng tự hào về quê hương:

Sáng trăng dạo cẳng đi chơi
Dạo miền sơn thủy là nơi hữu tình.

*

Nhìn xem phong cảnh làng ta
Có sơn có thủy bao la hữu tình.

Từ cặp đôi núi sông, sơn thủy này đã hình thành nên biểu tượng nước non phổ biến trong ca dao:

Non kia ai đắp mà cao
Sông kia ai bới ai đào mà sâu
Nước non là nước non trời
Ai phân được nước ai dời được non.

Nước biếc non xanh trở thành dấu hiệu của vẻ đẹp phong cảnh, thành niềm tự hào về nét đẹp của mỗi vùng quê:

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

*

Đền Sòng thiêng nhất tỉnh Thanh
Đền Hùng Phú Thọ nước biếc non xanh hữu tình.

Vì sao trong ca dao cái đẹp của phong cảnh thường gắn với hình tượng “núi sông”, “sơn thủy”, “nước non”, “non xanh nước biếc”? Ở đây có thể có nhiều cách giải thích khác nhau. Trước hết chúng ta thấy trong sâu thẳm ý thức con người, những gì hài hòa thường là cơ sở tạo nên cảm giác đẹp, dễ chịu, ưa thích. Trong tư duy phương Đông, hài hòa lớn nhất là hài hòa giữa Âm và Dương. Từ cặp hài hòa Âm – Dương sẽ đẻ ra vô số cặp hài hòa khác, phổ biến nhất là những cặp hài hòa mang tính cân đối, đối xứng như kiểu: ngày – đêm, trên – dưới, trong – ngoài, lên – xuống, trưa - tối v.v... Trong ca dao có rất nhiều câu thơ thể hiện nét tư duy ấy:

Thương em như lá đài bi
Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương.

*

Một người trên núi non Bồng
Một người dưới biển dốc lòng chờ nhau.

*

Ngược xuôi lên thác xuống ghềnh
Chim kêu bên nọ, vượn trèo bên kia.

Núi - sông sở dĩ trở thành biểu tượng của vẻ đẹp phong cảnh bởi vì nó là cặp hài hòa lớn nhất, rõ rệt nhất, huống chi ngoài điều đó ra, ở nước ta núi - sông vốn gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của con người, mọi công việc làm ăn, đói no, mọi sinh hoạt vui buồn đều gắn với sông, với núi; sông núi rất gần gũi, thân thiết với con người. Tất cả điều đó làm cho sông núi dễ trở thành biểu tượng tiêu biểu của cái đẹp phong cảnh thường được nhắc đến trong ca dao.

Ngoài ra, ở đây cũng còn một lí do nữa. Sở dĩ ca dao tả phong cảnh thường nói đến sơn - thủy, nước - non có lẽ một phần vì theo quan niệm cổ xưa của phương Đông, núi sông là cốt tủy của sự sống, núi không thể thiếu sông, sông cần phải có núi, thiếu một trong hai cái đó, sự sống không tồn tại, như dương thiếu âm, âm không có dương. Hình ảnh sông núi bên nhau bởi vậy trở thành tượng trưng cho vẻ đẹp của vũ trụ, của đất trời. Để giải thích vì sao tranh sơn thủy Trung Hoa thường vẽ cảnh núi sông, danh họa đời Bắc Tống Quách Hy đã viết: “…núi có sông thì sinh động, có cây cỏ thì đẹp tươi, có khói mây thì mỹ lệ. Sông lấy núi làm khuôn mặt, lấy đình, tạ làm vui mắt, lấy người câu cá làm tinh thần. Cho nên sông có núi thì đẹp… Đó là sự bố trí của núi sông”(6). Trong ý nghĩa ấy có thể nói những câu ca dao về thiên nhiên là những bức tranh sơn thủy.

Bên cạnh “sơn thủy”,”nước non” khi nói đến phong cảnh, trong ca dao còn thường gặp hai chữ “hữu tình”:

Nhìn xem phong cảnh làng ta
Có sơn, có thủy bao la hữu tình.

*

Sáng trăng dạo cẳng đi chơi
Dạo miền sơn thủy là nơi hữu tình.

Ở đây vẻ đẹp của sơn thủy không chỉ còn là vẻ đẹp của sự hài hòa như bản chất của sự sống mà còn mang một sắc thái khác – sắc thái của tình yêu. Cảnh đẹp là cảnh phải có tình. Tình ở đây trước hết là tình yêu lứa đôi, có sơn có thủy, có mình có ta. Sơn thủy sở dĩ đẹp vì nó tượng trưng cho tình yêu, tượng trưng cho hình ảnh người con trai và người con gái cho sự sống có cặp có đôi:

Nước non, non nước khơi chừng
Ái ân đôi chữ, xin đừng xa nhau.

Chính từ cảm hứng về vẻ đẹp của nước non như biểu tượng của tình yêu trong ca dao, Tản Đà đã viết nên bài “Thề non nước” nổi tiếng:

Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non…

Như chúng ta thấy cảnh đẹp là cảnh “hữu tình”. Nhưng “hữu tình” không phải chỉ là đẹp. “Hữu tình” cũng không phải chỉ gắn với tình yêu:

Ở đây sơn thủy hữu tình
Có thuyền, có bến, có mình có ta.

*

Đại Hoàng phong cảnh hữu tình
Của nhiều đất rộng, gái xinh, trai tài.

*

Kim Liên phong cảnh hữu tình
Dương cơ cũng lịch, địa hình cũng vui.

“Hữu tình” còn gắn với hạnh phúc, no ấm, với độ phì nhiêu của đất đai, với cuộc sống tấp nập và với chính sự hiện diện đẹp đẽ của con người. Rõ ràng cả ở đây thẩm mỹ của dân gian rất nhất quán: cái đẹp luôn gắn với cái có ích. Nhưng ở đây cũng cho thấy một nét tính cách nữa của người Việt, đó là coi trọng chữ tình. Cảnh quí không phải chỉ đẹp mà còn phải hữu tình, hay nói cách khác, đẹp là phải hữu tình, khen một phong cảnh “hữu tình” thì không chỉ là khen nó mỹ miều mà còn khen nó vì nó gợi ra những liên tưởng về tình yêu hoặc cuộc sống no ấm. Chữ tình này là một đặc điểm nổi bật trong tính cách người Việt, thể hiện cả trong thị hiếu thẩm mỹ, trong tình yêu, trong cuộc sống và do đó cả trong văn học, trong ca dao:

Yêu nhau căn dặn đủ điều
Càng say về nết, càng yêu vì tình

*

Sống mà chẳng có chữ tình
Thì em cũng quyết liều mình cho xong.



Tìm hiểu đặc điểm của thiên nhiên và phong cảnh như ngọn nguồn của cảm xúc về cái đẹp trong ca dao, chúng ta thấy những cảnh “hữu tình” thường là những cảnh động:

Ở đây phong cảnh vui thay
Trên chợ dưới bến lại có gốc cây hữu tình.

*

Trên trời có đám mây vàng
Bên sông nước chảy có nàng quay tơ.

Người dân quê tuy cuộc sống vất vả, làm lụng cực nhọc, hứng chịu đủ hậu quả thiên tai và bất công xã hội, nhưng nhìn chung cái nhìn của họ về cuộc sống vẫn trong sáng, thấm đượm lòng yêu thiên nhiên, yêu đời. Không có cái nhìn ấy không thể ngắm và vui với phong cảnh quê hương. Niềm vui ấy làm cho cảnh vật trở nên sống động, linh hoạt, tràn đầy sinh khí:

Trời xanh dưới nước cũng xanh
Trên non gió thổi dưới gành sóng xao.

*

Vì mây cho núi lên trời
Vì cơn gió thổi hoa cười với trăng…

*   

Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng
Bên bờ vải nhãn hai làng
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.

Thị hiếu thẩm mỹ dân gian bộc lộ ở đây không chỉ thể hiện cái nhìn lạc quan về cuộc sống. Trong gốc rễ sâu xa, nó gắn liền với vũ trụ quan của người dân quê, với ý niệm thô sơ về tự nhiên, xem sự sinh trưởng và vận động của vạn vật là sự sống và bản thân sự sống đã là đẹp. Đối với người dân quê, quả thực “cái đẹp là cuộc sống”. “Trên một mức độ nào đó, cây xào xạc, cành cây đu đưa, lá cây run rẩn cũng làm ta nghĩ đến cuộc sống của con người… Một phong cảnh đẹp là khi nó có hoạt khí”(7). Cái “hoạt khí” toát lên từ cảnh gió thổi, sóng xao, hoa cười, cá lội tung tăng chứng tỏ phong cảnh trong những câu ca dao trên tràn đầy sự sống và do đó theo thểm mỹ của những người dân quê, nó cũng tràn đầy cái đẹp.

Điều này cho phép chúng ta giải thích thêm một đặc điểm nữa của thiên nhiên và phong cảnh trong ca dao – đó là vì sao trong ca dao thường bắt gặp rất nhiều màu xanh:

Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.

*

Cát Chính có cây đa xanh
Có đường cái lớn chạy quanh trong làng.

*

Dừa xanh trên bến hai hang
Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu.

Không chỉ “rau xanh” (con cò lội bãi rau xanh/ Đắng cay chịu vậy than rằng cùng ai) mà còn có “sen xanh” (Xuống đầm ngắt lá sen xanh/ Thấy chim loan phượng đỗ cành xoan nâu), “nải chuối xanh” (Lọng vàng che nải chuối xanh/ Tiếc con chim phượng đậu nhành tre khô), rồi đến “đồng xanh” (Đường về Đông Việt loanh quanh/ Đồng xanh làng đẹp như tranh họa đồ), “rừng xanh” (Muốn tắm mát xuống ngọn sông Đào/ Muốn ăn sim chin thì vào rừng xanh), “núi xanh” (Chim  khôn bay lượn ngang trời/ Trong non non biếc, trông người người xa).

Đáng chú ý là không chỉ đồng xanh, rừng xanh, mà cả biển cũng xanh, trời cũng xanh, mây xanh, sông xanh, nước xanh, hồ xanh, đến chim cũng xanh:

Rừng xanh cả biển cũng xanh
Để xem cây quế ngả cành về đâu.

*

Trên trời có đám mây xanh
Có bông hoa lí, có nhành mẫu đơn.

*

Sông xanh phẳng lặng nước đầy
Tình chung hai chữ nghĩa này giao hoan.

*

Ai đi qua đò có biết
Dòng nước trong xanh biết là bao.

*

Con chim nhạn xanh xếp cánh bay chuyền
Phận em là gái thuyền quyên má đào.

Sự đậm đặc của màu xanh trong ca dao rõ ràng là sự phản ánh màu sắc của thiên nhiên nước ta, một vùng đất nhiệt đới có nhiều cây xanh, nhiều rừng, nhiều cánh đồng trồng lúa và có bờ biển dài từ Bắc đến Nam. Nhưng không phải chỉ như vậy. Cây xanh, đồng xanh, rừng xanh luôn luôn là biểu tượng của sự sinh trưởng, tốt tươi, trù phú. Màu xanh ở đây không chỉ là màu của thiên nhiên mà còn là màu của sự sống. Màu xanh trở thành tượng trưng cho vẻ đẹp của tự nhiên tràn đầy sức sống. Màu xanh cũng thể hiện cái nhìn tươi mới, yêu đời của người dân quê đối với phong cảnh thiên nhiên, thể hiện một nét đáng yêu trong thẩm mỹ dân gian. Chính cái màu xanh ấy và cùng với nó là những rung động thẩm mỹ chứa đầy tình yêu sự sống đã đi vào sáng tác của văn chương bác học làm cho câu thơ mang đậm chất thẩm mỹ dân gian:

Cỏ xanh như khói bến Xuân tươi
Lại có mưa Xuân vỗ nước trời.

                                 (Nguyễn Trãi)

Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

                                      (Nguyễn Du)

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.

                          (Hàn Mặc Tử)

Cái đẹp thiên nhiên là nguồn cảm hứng lớn của ca dao. Nó là cái đẹp đầu tiên, cái đẹp có trước. Người có đẹp thì người cũng chỉ là một bộ phận của tự nhiên: “Người ta hoa đất”. Trong thẩm mỹ dân gian vẻ đẹp của con người và thiên nhiên hòa với nhau, tô điểm cho nhau, nhưng dường như cái đẹp của thiên nhiên vẫn cao hơn, như là thước đo, như là chuẩn mực:

Thấy em mắt phượng môi son
Mày ngài da tuyết đào non trên cành.

Điều này giải thích vì sao trong ca dao vẻ đẹp của con người thường được ví với cây, với lá, với hoa:

Em như cái búp hoa hồng
Anh giơ tay muốn bẻ về bồng nâng niu.

*

Gái Dự Quần đẹp như hoa lí
Trai thanh tân có ý mà theo.

*

Nhác trông thấy một bóng người
Răng đen nhưng nhức, miệng cười như hoa.

Vẻ đẹp của thiên nhiên tràn ngập trong ca dao, hiện lên trên phong cảnh, trên hình dáng và khuôn mặt con người. Thái độ đối với cái đẹp của thiên nhiên ấy vừa phản ánh vũ trụ quan thô sơ của người dân quê coi con người và thiên nhiên như là một, vừa nói lên tình yêu của họ đối với thiên nhiên, một tình yêu vừa có ý nghĩa mỹ học sâu sắc, vừa chứa đựng trong nó một nhãn quan về môi trường rất nhân văn và hiện đại.

Tìm hiểu cái đẹp của thiên nhiên và phong cảnh trong ca dao chính là tìm hiểu cách con người cảm nhận vẻ đẹp của thế giới xung quanh, tìm hiểu đặc điểm của những rung động thẩm mỹ đã để lại dấu vết trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, trong cách đề cao, khen ngợi những cảnh vật được ưa thích. Từ những khảo sát bước đầu trên đây, chúng ta thấy tình yêu thiên nhiên, trong đó có yêu cái đẹp của thiên nhiên, phong cảnh là một nét nổi bật trong tính cách người Việt. Đối với người dân quê, cảnh đẹp là cảnh có sơn có thủy, sông núi hài hòa, núi sông uốn lượng mềm mại, cảnh vật luân chuyển, hoạt động, tràn đầy sinh khí và sức sống (“xanh tươi”) nhưng cũng đầy tình tứ, gắn bó, tương thông với con người (“hữu tình”). Cảnh đẹp ấy bên cạnh hình dáng uyển chuyển và màu sắc tươi tắn còn là hình ảnh của ấm no, hạnh phúc. Trong thẩm mỹ của người dân quê, cái đẹp và cái có ích không loại bỏ nhau mà gắn chặt với nhau.

Nghệ thuật là nơi tập trung cao nhất quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực, nhưng cái đẹp không chỉ có trong nghệ thuật. Cái đẹp có cả trong thiên nhiên trong phong cảnh. Rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên là một bộ phận trong kinh nghiệm thẩm mỹ của con người. Tìm hiểu những rung động thẩm mỹ thể hiện qua ca dao truyền thống cũng là một cách tiếp cận bản sắc văn hóa của người Việt và tìm hiểu cái đẹp của nghệ thuật. “Mỹ học tự nhiên sẽ cho chúng ta những cơ sở cần thiết để xây dựng triết học nghệ thuật”(8).

NGUYỄN THỊ KIM NGÂN
Nguồn: Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 635, tháng 11/2014


Chú thích:

 (1) Hà Văn Tấn – Bản sắc văn hóa Việt cổ, trong sách: “Đến với lịch sử Văn hóa Việt Nam”, Nxb. Hội Nhà Văn, 2005, trang 151.

(2) Ca dao trích dẫn được lấy từ bộ sách: Nguyễn Xuân Kính, Kho tàng ca dao người Việt (2 tập), Nxb. Văn hóa Thông tin, 2001.

(3) Từ trong di sản… Nxb. Tác phẩm mới, HN, 1981, trang 32,62,76.

(4) Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Bốn phương, HN, 1951, trang 22.

(5) Xem Đinh Gia Khánh: Câu mở đầu trong ca dao,…. .

(6) Theo Lưu Cương Kỷ - Phạm Minh Hoa: Chu Dịch và Mỹ học, Nxb Văn hóa – Thông tin, HN, 2002, trang 46.

(7) N.G. Tchernyishevxki. Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật với hiện thực. Nxb. Văn hóa – Nghệ thuật, HN, 1962, trang 27,28.

(8) Vladimir Soloviev: Cái đẹp trong thiên nhiên, trong sách “Siêu lý tình yêu” (Phạm Vĩnh Cư dịch), Nxb. Tri Thức, Hà Nội, tập 3, trang 9.

NHÀ VĂN THÙY DƯƠNG: TRĂN TRỞ VỚI MỖI THÂN PHẬN NGƯỜI

Nếu không biết Thùy Dương sinh ra và lớn lên ở Hải Dương, sẽ đoán   chắc nàng là người Hà Nội gốc. Gọi là nàng v ì nàng không chỉ xinh đẹp, ...

BÀI ĐỌC NHIỀU