Nhà thơ Anh Hồng (Cao Thị Hồng)
Nhà thơ Bùi Giáng, một trong những “quái kiệt” của văn
chương miền Nam trước 1975 đã xem thơ là thế giới của mộng tưởng, của nhiệm mầu,
của ám ảnh vô thức và tâm linh khi ông cho rằng: “Cõi thơ là cõi bồng phiêu”.
Vì vậy, người làm thơ tất nhiên phải “phiêu bồng” trong cõi mơ tưởng ấy thì mới
có thể sáng tạo nên thế giới thơ cho riêng mình, nếu không chỉ là sự tái tạo ra
một sản phẩm tương tự như thơ chứ không phải là thơ, điều mà hiện nay đang tràn
ngập ngổn ngang trong đời sống văn học, làm cho người đọc quay lưng với thơ. Và
như vậy, vô hình trung giá trị của thơ đã bị hạ thấp, biến thành một món hàng ế
ẩm trong siêu thị văn học của đời sống hiện đại.
Rất may, thơ Anh Hồng không rơi vào bi kịch ấy và thật sự
là một giá trị khi chị biết tạo cho mình cõi thơ riêng – một điều rất cần cho sự
sáng tạo văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Bởi, nếu không sáng tạo được
cõi riêng cho mình thì nhà thơ sẽ tự đào huyệt chôn mình trong nghĩa trang thơ.
Đọc Người đàn bà qua hai mùa tóc (Nxb. Hội Nhà văn, 2014) của Anh Hồng,
cái cõi riêng ấy đã hiện hữu trong thơ chị như một tâm thức hiện sinh với những
câu hỏi về thân phận, về hiện hữu, về bản thể, về nỗi cô đơn phận người mà
không phải sống ở đời ai cũng ý thức về điều ấy. Bài thơ mở đầu như một tuyên
ngôn mang tâm thức hiện sinh ám ảnh suốt tập thơ.
Từng mảnh Tôi
Từng mảnh Tôi
Tan vỡ
Chơi vơi
Tìm nơi náu mình
Trên ngọn cỏ...
...
Mặt đất lè tè
Ngọn cỏ thấp
Từng mảnh Tôi
Lặng lẽ...
Tìm Tôi...
(Mở)
Việc trăn trở về sự hiện hữu của bản thể trong thơ Anh Hồng
không phải là điều mới lạ. Bởi đây là vấn đề nhân loại luôn khát khao kiếm tìm
và lý giải từ nhiều điểm nhìn triết học khác nhau. Và trong thơ vấn đề bản thể
luận cũng được nhiều thi nhân đề cập đến như một tâm thức hiện sinh. Nhà
thơ Chế Lan Viên, trong Điêu tàn đã từng tự vấn: “Ai bảo giùm: Ta có, có ta
không?”... Nhưng Anh Hồng lại tìm cho mình một cách thể hiện riêng về tâm thức
hiện sinh. Nhà thơ không những đi tìm cái “Tôi hiện hữu” mà còn đi tìm từng “mảnh
vỡ” của cái “Tôi” ấy. Và những mảnh vỡ của cái “Tôi” này đã hóa thân vào những
phận người chảy dài trong dòng sông cuộc đời mà thi nhân trải nghiệm được thể
hiện khá sâu sắc ở các bài thơ: Khúc ca về những dấu chân; Đêm Mường
Bi, lắng nghe; Tương phản; Giọt nước mắt từ kinh Vu Lan; Ám ảnh; Đêm Lào Cai;
Chiều đông, đồng Phú Thọ; Mảnh vỡ... mà khi đọc lên ta không khỏi thấy đắng
chát cõi lòng.
... Muôn dấu chân đi, về...
Dấu chân in
hoa lên đá
Dấu chân lấp
lóa biển khơi
Dấu chân
mang tiểu sử một kiếp người
Dấu chân
lung linh hào quang huyền thoại...
Nội ơi!
Dấu chân
nào của nội
Trong đêm
biển cả tan hoang...
Chỉ có dấu
chân đi không thấy dấu chân về?
(Khúc ca về những dấu chân)
Đó là niềm khắc
khoải khôn nguôi về thân phận con người với những nỗi nhọc nhằn như một định mệnh
có từ thuở hồng hoang của nhân loại được nhà thơ cảm nhận một cách tinh tế với
sự thấu thị của một tâm thức hiện sinh.
Đêm Mường
Bi
...
Nghe
văng vẳng nỗi buồn lạc về từ miền cổ tích
Hoang
hoải một cánh rừng
In dấu
lên cái nhìn của Mẹ
Hằn vết
trong khóe mắt của Cha...
...
Cuộc
sinh nở chưa tròn...
Ôi!
Những kiếp người dằng dặc mưu sinh...
(Đêm Mường Bi, lắng nghe)
Đó là
hình ảnh những người chồng mất tích giữa biển khơi để lại trên cõi đời khốn khổ
này những người vợ, những đứa con mà cuộc đời cũng tròng trành trong biển khổ của
cuộc mưu sinh mặn đắng:
Ám ảnh
Một
trưa nắng lửa
Hậu Lộc
xứ Thanh
Những
người chồng mãi mãi chìm sâu dưới đáy đại dương sau cuồng phong của biển
Những
người vợ trên đầu trắng khăn tang
Quỳ gối
trần trên lưng cát bỏng
Nạo
vét mấy con ngao
Lũ trẻ
con tóc cháy khét, mũi dãi chảy lòng thòng
Ráo cổ
họng rao bán mấy bánh đa, vài gói bim bim kẹo lạc
Đôi mắt
chúng đong đầy màu mưa nắng
Mây
trời âm u
Ánh
nhìn trẻ con già như biển cả
Trước
những đồng xu lẻ leng keng...
(Ám ảnh)
Đó còn
là hình ảnh những đứa trẻ H’Mông khốn khổ trên đỉnh Mãpìlèng đang vật lộn với
thiên nhiên đầy khắc nghiệt của núi rừng để tồn tại mà dẫu có giàu tưởng tượng
đến mấy chúng ta cũng không thể nghĩ rằng điều đó vẫn đang hiện hữu trong thời
đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa hôm nay!?
Chúng
cởi trần giữa hai đợt lạnh tái tê buốt giá
Chân
trần chạy trên đá tai mèo sắc nhọn
máu
tươi rớt dưới chân ngô.
hay hình ảnh những người đàn ông Phù Lá
Hoàng
hôn phủ đầy ánh mắt
Héo hắt
nụ cười...
Cả đời không bao giờ bước chân rời khỏi hẻm núi cheo leo...
(Ám ảnh)
Những mảnh
đời bất hạnh ấy luôn là niềm khắc khoải, ám ảnh tâm thức nhà thơ trong từng sát
na của hiện hữu. Đó cũng là nỗi đau bất tận luôn dằng xé, cào cấu tâm hồn người
viết, nỗi đau như giông bão triền miên tràn về mà khi đọc lên, ta không khỏi se
sắt cõi lòng:
Giông
tố quất vào hồn tôi mỗi chiều, mỗi đêm mỗi sáng,
Mỗi
sáng, mỗi chiều, mỗi tối, mỗi đêm đêm...
(Ám ảnh)
Nhưng có
lẽ cái ám ảnh thường trực nhất, bao trùm nhất của tâm thức hiện sinh tạo thành
cõi riêng trong thơ Anh Hồng đó chính là thân phận của Người đàn bà với những
cơ cực, những khổ đau, những vui buồn, những đam mê và khát vọng, điều mà Nguyễn
Du đã khái quát trong Truyện Kiều nổi tiếng:
“Đau
đớn thay phận đàn bà
Lời rằng
bạc mệnh cũng là lời chung”.
Và chính
điều này đã góp phần lý giải vì sao Anh Hồng lại lấy tựa đề cho tập thơ của
mình là Người đàn bà qua hai mùa tóc.
Tôi rất ấn
tượng với tên của tập thơ. Theo cảm thức thông thường để đếm bước đi của thời gian,
người ta nói đến bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông chứ có bao giờ dùng “mùa tóc” để
chỉ bước đi của thời gian!? Thế mà ở đây, bằng sự nghiệm sinh và sự cảm nhận
tinh tế của Người đàn bà, Anh Hồng đã lạ hóa khái niệm về thời gian qua hình ảnh
thơ đầy tính độc sáng: “Người đàn bà qua hai mùa tóc”. Mùa tóc ở đây không chỉ
đơn thuần mang ý niệm thời gian mà còn chứa trong đó biết bao vinh quang và cay
đắng, hạnh phúc và khổ đau của số phận con người...
Người
đàn bà qua hai mùa tóc
Đôi mắt
nâu mang theo ánh nhìn của biển chiều đông
Giông
bão lật tung những giấc mơ chở đầy màu tro của đất
Với
tay, không kịp túm lại chút mong manh còn lại
Mặt
trời lẫn vào đêm...
Người
đàn bà tự dắt mình bước qua định mệnh
Từng
nhích nhích hao mòn
Từng
ngón gầy xanh xao mỗi ngày bừng giấc mơ lạ lùng mê hoặc...
Ngỡ
chạm búp non...
(Người đàn bà – những giấc mơ)
Và đây
là cảm hứng chủ đạo, bao trùm tâm cảm thi nhân, quán chiếu trong cả tập thơ làm
nên một cõi riêng trong thơ Anh Hồng như một ám ảnh của tâm thức hiện sinh. Vì
vậy, trong tập thơ có nhiều bài nói về cuộc sống của Người đàn bà với những cảnh
đời, những số phận, những vui buồn, những đam mê và khát vọng khác nhau... Đó
là các bài thơ Tương phản; Thèm; Lời muốn nói; Những dòng tin để lại;
Người đàn bà – những giấc mơ; Người đàn bà trên cao nguyên đá; Người đàn bà với
trò chơi tiếp sức; Tình yêu; Nguồn sống; Giấc ngủ của em anh cất giấu nơi
đâu?; Người đàn bà ngồi bên ô của sổ; Ghép chữ... Và mỗi bài thơ như có một
mảnh vỡ của cái “Tôi” thi nhân tan hòa trong đó. Vì vậy, cái nhìn của Anh Hồng
về số phận những Người đàn bà trong thơ là cái nhìn sẻ chia, đồng cảm, đồng điệu
trước những bất hạnh mà họ gánh chịu... mà khi đọc lên lòng ta không khỏi quặn
thắt một nỗi niềm trắc ẩn.
Nhẫn
nại bước chân đi, về
Người
đàn bà xóm Bến
Gò
lưng kéo những chuyến hàng thuê
......
Người
đàn bà – chiếc áo không màu – chiếc xe cũ nát.
Chìm
lấp giữa những âm thanh xanh đỏ phố phường
.....
Đôi
vai mỏng run run làn áo mỏng
Bóng
xiêu xiêu đổ về phía mặt trời
(Tương phản)
Người đọc
bắt gặp trong thơ Anh Hồng hình ảnh Người đàn bà H’Mông trên cao nguyên đá đang
lặng lẽ âm thầm oằn lưng gánh “lũ ống, mưa rừng” và “ nắng hạ sém da, rét đông
tê tái” với bao hiểm nguy để gieo mầm sự sống. Chính họ là những người đã truyền
lửa cho cuộc đời nối tiếp cuộc đời ở một vùng núi cao, xa mờ, hoang sơ với
thiên nhiên nghiệt ngã. Nếu không có một sự thấu cảm thì nhà thơ không thể nào
viết được những câu thơ đầy ám gợi...
Người
đàn bà H Mông lặng lẽ âm thầm
Đếm từng
hạt đất màu treo trên từng kẻ đá
.....
Người
đàn bà H Mông
Nhẫn
nại...
âm thầm...
nâng
niu từng hạt đất...
Chắt
chiu mầm sống
lớn
lên...
(Người đàn bà trên cao nguyên đá)
Hay hình
ảnh Người đàn bà đang đánh đu cuộc đời với những đỏ đen của “trò chơi số phận”
mà Anh Hồng đã khái quát thật tinh tế và đầy chất nhân văn qua “trò chơi tiếp sức”
trên truyền hình mà nếu không có tấm lòng cảm thương trước những được mất của
phận người thì không thể nào nhận ra điều bi kịch ấy.
Người
đàn bà đôi vai mỏng như lá lúa
Đánh
cuộc
Thảng
thốt
Với
từng nhấc tay
Trắng
đỏ trắng đỏ...
Ba
đứa con thơ bệnh tật giày vò
Đang
chờ mẹ
Với
trò chơi Tiếp sức
Để
chơi tiếp
Trò
chơi số phận
Nghiệt
ngã... mông lung
(Người đàn bà với trò chơi Tiếp sức)
Tuy
nhiên cái tâm thức hiện sinh làm nên cõi riêng trong thơ Anh Hồng không chỉ dừng
lại ở những nỗi đau với những vất vả lo toan từ cuộc sống thường ngày của Người
đàn bà mà ẩn sâu trong đó còn có nỗi cô đơn thân phận với những đam mê cháy bỏng
trong tình yêu mà chúng ta thường bắt gặp trong thơ Nữ Việt hiện đại với những
gương mặt tiêu biểu như: Vy Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Phan Huyền Thư, Cát Du,
Đoàn Ngọc Thu, Ngô Thị Hạnh... Và cũng như trong thơ của các nhà thơ Nữ Việt hiện
đại dấu ấn của thuyết “Nữ quyền luận” cũng hiện rõ trong thơ Anh Hồng. Phải
chăng, chính cảm thức “Nữ quyền” này đã giúp Anh Hồng nói riêng và các nhà thơ
Nữ hiện đại Việt Nam nói chung có thể vượt qua những rào cản đạo đức khắc nghiệt
của một thời để nói lên những “khát vọng thành thực” (từ dùng của Hoài Thanh-
TM) từ bản thể của mình.
Nhà thơ
Vi Thùy Linh đã từng xác quyết trong thơ mình cái khát vọng sống và yêu của người
phụ nữ thật mãnh liệt:
Khu
vườn ắng lại chỉ còn anh và em
Khởi
đầu phận sự thiêng liêng
Những
cặp chân khóa chặt nhau khước từ chân lý
(Anh sẽ
ru em ngủ - Đồng tử)
Đây cũng
chính là những biểu hiện mạnh mẽ nhất tâm thức hiện sinh trong cõi thơ Anh Hồng
với bao khát vọng kiếm tìm vốn là một yếu tính của tình yêu.
Tìm
đâu, tìm đâu
Không
– Cô – Đơn ?
Cô
đơn nhảy múa điên cuồng
Muốn
thiêu ta thành tro bụi
Chỉ
muốn bay lên
Bay
lên... thăm thẳm... bay lên...
(Trạng thái)
Và chính
trong trạng thái cô đơn đến rợn ngợp này đã làm bùng cháy những khát vọng yêu đương
đầy nhục cảm nhưng rất nhân bản của con người. Vì vậy, khát vọng ái ân ấy không
hề tầm thường mà chứa đựng một giá trị nhân văn sâu sắc. Nó như một thông điệp
tình yêu vừa thực lại vừa mộng.
Thèm
một cái ôm ghì siết của anh
Để
phiêu diêu vào cõi thiên đường
Của
Eva và A Đam
Thèm
anh ở trong em thăm thẳm
Thiêu
đốt tận cùng bằng ngọn lửa
Ăn cắp
của thần Dớt trên đỉnh Olympus
Nếu một
ngày...
Không
còn thèm gì nữa
Có
nên quẳng đời vào Recycle Bin ???
(Thèm)
Vâng!
Con người có rất nhiều thèm khát. Nhưng vấn đề là ta có dám nói ra những thèm
khát của mình một cách thành thật hay không, hay cứ che đậy những thèm khát ấy
dưới những mặt nạ đạo đức để rồi thực hiện nó trong bóng tối!? Thơ Anh Hồng đã
nói lên rất thành thực nỗi khát khao của Người đàn bà trong cuộc sống. Bởi hơn
ai hết Anh Hồng đã ý thức rất sâu sắc về sự mỏng manh và hư hao của kiếp người
trong cuộc đời mà sự hư hao ấy ở Người đàn bà lại càng vô cùng cay nghiệt và đớn
đau.
... Nửa
yêu thương dành lại cho mình
Là
chiếc bóng chập chờn trong hoang hoải
Lặng
lẽ quỳ giữa hai mùa tóc
Em bối
rối ... giật mình
Tro
hoa hồng lả tả trắng không gian...
(Dành lại cho mình)
Triết
gia Heraclite đã xác quyết: “không ai có thể tắm hai lần trên cùng dòng sông”.
Và cuộc đời mỗi người không thể sống hai lần. Vì vậy, khi con người ý thức về sự
hiện hữu của mình trên cõi đời thì sẽ trân quí hơn cuộc sống và khi đó mọi cái
đi qua đời mình đều trở thành những giá trị. Điều này ta cũng bắt gặp trong thơ
Anh Hồng khi nhà thơ ý thức rằng sự hiện hữu của thân phận cũng vô cùng mong
manh và hư ảo và những gì đi qua trong cuộc đời rồi cũng hư hao theo năm
tháng của kiếp phù sinh.
Qua
đi, qua đi những khoảnh khắc mong manh như lá
Qua
đi, qua đi những ánh chớp vui, buồn...
Để một
ngày chợt ngắm vầng trăng khuyết
Biết
hao gầy thao thức giấc chiêm bao...
Để một
ngày lặng nghe lòng buốt xót
Hiểu
cát cũng buồn nếu không biển mênh mông...
(Để một ngày)
Chính vì
ý thức qui luật của hiện hữu trong cuộc đời hư ảo với một tâm thức hiện sinh mạnh
mẽ nên khát vọng của người đàn bà trong thơ Anh Hồng nhiều khi cũng bùng nổ những
cảm xúc mãnh liệt mà nhà thơ gọi đó là những “nguồn sống”. Bởi lẽ, nếu không có
những đam mê rất Người này liệu cuộc sống sẽ còn có ý nghĩa gì? Và lúc đó con
người sẽ tự cật vấn là mình đang tồn tại hay đang sống!? Bởi nói như Phạm Công
Thiện:“Thơ làm tôi sống lại – Thơ giải thoát tôi ra khỏi vòng tù hãm nhọc nhằn
của cuộc sống. Thơ đặt tôi trước cuộc sống.”(1)
Rất
muốn
Mỗi
khi trong em cảm giác sắp nổ tung thành muôn mảnh
Được
gục đầu vào anh chỉ thoáng chút thôi...
Nhắm
mắt
Hít
mùi nồng nàn quen thuộc
Ôm bờ
vai anh
Và thấy
mình phiêu diêu, phiêu diêu...
...
Bờ
vai anh
Nồng
nàn, hăng hắc
Rất -
đàn - ông
Đã
mang đến cho em
Nguồn
sống
(Nguồn sống)
Và khát
vọng tình yêu đó không chỉ là “nguồn sống” mà còn là nội lực làm nên sức mạnh
giúp Người đàn bà vượt lên những muộn phiền, những đớn đau của thân phận để được
sống đúng nghĩa với hai tiếng Con Người:
Siết
chặt thân thể nhau trong vòng tay êm ái
Đêm
choàng áo dịu dàng
Anh
hút chặt em vào miền quên lãng
Gột rửa
ưu phiền
Chỉ
còn lại
Tiếng
thì thầm mộng mị như nhung
Em!
Anh!
Em!!!!!!
( Tình yêu)
Như vậy,
tâm thức hiện sinh trong thơ Anh Hồng không chỉ thể hiện những vật vã, đau đớn
của con người trong cuộc mưu sinh đầy khó khăn với bao thân phận nổi chìm mà
còn bộc lộ rõ khát vọng cháy bỏng, đê mê trong tình yêu, chạm vào những điều
sâu kín nhất trong bản thể con người. Đây chính là những giá trị nhân bản là yếu
tính làm nên tâm thức hiện sinh trong tập thơ Người đàn bà qua hai mùa
tóc của Anh Hồng. Bởi theo sự xác quyết của Cyprian Norwid: “Thế giới
này rốt cuộc chỉ còn lại hai thứ, chỉ hai thứ thôi: Thi ca và lòng nhân ái...
không còn gì khác”.
Phải
chăng tâm thức hiện sinh trong cõi thơ Anh Hồng ở tập thơ Người đàn bà
qua hai mùa tóc cũng chính là một trong những phẩm tính của thơ ca còn
lại với thời gian và cuộc sống...
Xóm Đình An Nhơn, 11.2014
TRẦN HOÀI ANH
____________
(1). Phạm Công Thiện Ý thức mới trong văn nghệ và
triết học. Nxb. An Tiêm SG. 1970, tr. 217.
Nguồn: VNTN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét