“gió đưa gió đẩy
về rẫy ăn còng
về sông ăn
cá về đồng ăn cua”
(ca dao)
“Biết đâu au revoir (tạm biệt) chẳng là adieu (vĩnh biệt)”.
Ông nói, giọng ngùi ngùi. Lần đầu tiên sau 24 giờ gặp nhau, tôi nghe một thoáng
hẫng như đã từng đọc “những ổ gà không khí” có rất nhiều trong văn ông. Những
cú hẫng những ổ gà những khoảng lặng như thế trong văn Trang Thế Hy bao giờ
nghe lại đọc lại cũng khiến tôi ngùi ngùi…
Nhà văn Trang Thế Hy
Về nhà văn Trang Thế Hy, Từ điển văn học (bộ
mới) viết: “Trang Thế Hy chuyên viết truyện ngắn và ký. Những tập truyện ký đã
xuất bản: Nắng đẹp miền quê ngoại (1964), Mưa ấm (1981), Người
yêu và mùa thu (1981), Vết thương thứ mười ba (1989), Tiếng
khóc và tiếng hát (1993). Tác phẩm mới nhất, có thể coi như một tuyển
tập của ông: Nợ nước mắt và những truyện ngắn khác (2001)”. Và
từ điển trích một câu trong một truyện ngắn của Trang Thế Hy để nói về quan niệm
nghệ thuật của chính tác giả: “Tôi nghe đó (từ câu chuyện của chị bán
thuốc lá) là lời răn dạy rất nghiêm có giá trị thức tỉnh cao của một hiện thực
đau buồn nhắc nhở người cầm bút đừng bao giờ đánh mất cái điểm tựa đáng tin cậy
của mình là nỗi đau khổ lớn của số đông thầm lặng”.
Sinh năm 1924, Trang Thế Hy đã tham gia hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ. Hiện sống tại quê nhà, huyện Châu Thành, tỉnh Bến
Tre.
***
Có thể nói cả đời Trang Thế Hy thuận theo những con “gió
đưa gió đẩy”. Gọi những con gió ấy là số phận cũng được, mà gọi là sự tình
cờ vô thường cũng xong! Nghe nói, hồi ở chiến khu miền Đông Nam Bộ, Trang Thế
Hy luôn thủ sẵn vài trăm… lưỡi câu để sẵn sàng giăng câu kiếm cá, hay ông có biệt
tài bắt… nhái băm chả, câu rắn mối, biến những điều không thể thành có thể, viết
chầm chậm những câu văn trong khi chờ mấy gã chuột sa bẫy trong những đêm rừng
lạnh. Ngày đó, tôi ở bên binh vận cùng Lưu Kiểng Xuân - một nhà văn đặc Nam Bộ
quê Cần Giuộc, Long An. Tư Xuân vốn là trung úy lái trực thăng của quân đội Sài
Gòn, nhưng là cơ sở cách mạng ở nội thành, là cộng tác viên của nhóm Tin Văn -
tên một tờ tạp chí văn nghệ thiên tả, có liên hệ với cách mạng. Tư Xuân sau đó
đã lên chiến khu,viết truyện và bút ký có nhân vật là lính Sài Gòn, nên được
đưa về ban tuyên truyền binh vận. Còn tôi chỉ là anh sinh viên mới tốt nghiệp ở
Hà Nội, vào bộ đội chưa lâu, cũng làm tuyên truyền binh vận cho đài phát thanh,
rồi đi B2, rồi về ban binh vận, rồi…
Chúng tôi chơi với nhau do có chút máu văn chương, và mỗi
lần, khi chuyện trò về văn học, bao giờ Tư Xuân cũng léo vào cái tên Trang Thế
Hy dưới biệt danh thân mật là Tư Sâm: “Tui khoái cha Tư Sâm này, văn chả kỹ mà
sâu, lại đúng giọng Nam Bộ!” Dù chưa gặp Trang Thế Hy, cũng chưa có may mắn đọc
văn ông - trong rừng mấy thứ văn chương còn hiếm hơn cả chuột hay rắn mối -
nhưng tôi tự nhiên có cảm tình với Trang Thế Hy từ đó. Qua Tư Xuân, tôi còn biết
Tư Sâm là người có “hoàn cảnh” có tâm trạng và nhiều lúc rất buồn, cô đơn nữa. Như
thế lại giống Tư Xuân và tôi.
Có một lần, Tư Xuân rủ tôi đi sang cứ của ban văn n ghệ R chơi, thăm Tư Sâm. Tiếc thay, lần đó khi chúng tôi mất nửa ngày trời băng qua những trảng cỏ voi và rừng dầu đến với Tư Sâm, thì ông lại đi công tác chiến trường, không có ở cứ. Hai chúng tôi được Anh Đức tiếp tại nhà, đãi một bữa cơm có thịt hẳn một con gà - điều quá hiếm ở rừng hồi ấy. Thôi thì ông anh Tư Sâm cũng xá cho, tôi với Tư Xuân chẳng qua cũng “gió đưa gió đẩy về cứ ăn… gà” chứ chúng tôi không cố ý. Hôm đó, trở về qua trảng cỏ voi, và tôi viết được bài thơ “Những dấu chân qua trảng cỏ”. Âu cũng là cái duyên với Trang Thế Hy, dẫu chưa gặp được ông, nhưng nhờ chuyến thăm hụt ông mà lận lưng được bài thơ không đến nỗi nào, vậy là ấm bụng! Cách đây mấy năm, khi gửi tặng tôi tuyển tập truyện ngắn “Nợ nước mắt và những truyện ngắn khác” - Lão nhà văn Trang Thế Hy đề tặng: “Tặng Thanh Thảo, người trở về vùng Tháp Chàm còn để lại ở rừng già phương Nam những “dấu chân trên trảng cỏ”. Một lời đề tặng vừa tình cảm vừa “kỹ”- đúng văn chất Trang Thế Hy.
Có một lần, Tư Xuân rủ tôi đi sang cứ của ban văn n ghệ R chơi, thăm Tư Sâm. Tiếc thay, lần đó khi chúng tôi mất nửa ngày trời băng qua những trảng cỏ voi và rừng dầu đến với Tư Sâm, thì ông lại đi công tác chiến trường, không có ở cứ. Hai chúng tôi được Anh Đức tiếp tại nhà, đãi một bữa cơm có thịt hẳn một con gà - điều quá hiếm ở rừng hồi ấy. Thôi thì ông anh Tư Sâm cũng xá cho, tôi với Tư Xuân chẳng qua cũng “gió đưa gió đẩy về cứ ăn… gà” chứ chúng tôi không cố ý. Hôm đó, trở về qua trảng cỏ voi, và tôi viết được bài thơ “Những dấu chân qua trảng cỏ”. Âu cũng là cái duyên với Trang Thế Hy, dẫu chưa gặp được ông, nhưng nhờ chuyến thăm hụt ông mà lận lưng được bài thơ không đến nỗi nào, vậy là ấm bụng! Cách đây mấy năm, khi gửi tặng tôi tuyển tập truyện ngắn “Nợ nước mắt và những truyện ngắn khác” - Lão nhà văn Trang Thế Hy đề tặng: “Tặng Thanh Thảo, người trở về vùng Tháp Chàm còn để lại ở rừng già phương Nam những “dấu chân trên trảng cỏ”. Một lời đề tặng vừa tình cảm vừa “kỹ”- đúng văn chất Trang Thế Hy.
Hoá ra ở đời vẫn có những tương hợp tình cờ như thế, “gió
đưa gió đẩy” chúng tôi qua những cánh rừng miền Đông những bưng biền Đồng
Tháp để cuối cùng, dù người về Bến Tre “đứng như bóng dừa”, kẻ trở lại
quê nhà miền Trung nương bóng Tháp Chàm, ăn don và cả ăn đòn, chúng tôi lại gặp
nhau… ăn cua. Vâng, ăn cua cốm. Ngay tại thị xã Bến Tre, sát mé
sông Hàm Luông hẳn hoi. Tôi, nhà thơ Chim
Trắng với nhà giáo dạy văn Nguyễn Tấn Huy từ Sài Gòn về Bến Tre thăm
lão trượng Trang Thế Hy. Chim Trắng đã ngót 70 mà tay lái còn “lụa”
lắm! Nghe nói ở quê tôi có ông chủ tịch ít tuổi hơn Chim Trắng nhưng mới về
hưu, nhớ tiếc một thời vàng son oanh liệt nên “Buổi sáng ông mặc áo đi
giày ra đứng ngoài đường”… chờ xe, kết luận theo thơ Trần Vàng Sao thì ông
là “một người yêu nước mình”. Đứng chờ xe, dẫu xe không đến, là còn muốn
làm việc, là còn “yêu nước mình”, chứ sao! Chim Trắng cười ngất, nói là
anh sẵn sàng ra Trung lái xe hầu “một người yêu nước mình” ấy. Anh vốn
hâm mộ những người yêu nước.
Chúng tôi ăn cua cốm, thứ cua hai da vừa
lột chưa lâu, có gạch béo và mềm, hạp với răng cỏ lão nhà văn. Lỗ Tấn
có biệt tài là viết nhấn, mỗi câu văn là một con sóng, con sau cao hơn, mạnh
hơn con trước. Chekhov thú nhận là mình không thật đam mê trong bất
cứ việc gì, cả làm thuốc và viết văn. Tôi nói với Nguyễn
Quang Sáng, anh viết về tôi đúng cả, chỉ có cái này là sai: Trang Thế Hy
quyết sống chết với văn chương. Không có đâu! Tôi chỉ dám là “người tình thoáng
chốc” của văn chương thôi. Tôi không ăn thua đủ về bất cứ cái gì. Đó là cái dở
nhất của tôi. Kể cả giải thưởng mà người ta định trao cho ông rồi… thôi? Ừ,
cả giải thưởng. Nhưng tôi phải thú nhận là tôi có sốc nhẹ, vì khi nghe thông
báo cứ như đã “được rồi”, tôi lỡ dại khoe với mấy người bà con nghèo, là Tư Sâm
sắp khá, có món tiền to, sẽ biếu mấy anh em chút đỉnh tiêu chơi. Nào ngờ. Coi
như tôi nói dối họ. Không nói dối đâu, anh Tư, nhưng là nói chưa thành
sự thật. Quán ăn Trương Ký, lão nhà văn khẽ khàng gắp miếng cá chẽm kho ngót
(kho ngọt) có để chanh, chiêu ngụm rượu vang trắng Alsace chánh hiệu mà Chim Trắng
mang từ Sài Gòn xuống. Lỗ Tấn nói “nhà văn như con bò ăn cỏ khô rơm khô
nhưng phải cho đời sữa tươi”. Tôi đế: Cá chẽm với vang
Pháp cũng là cỏ khô sao anh Tư? Lão nhà văn cười mỉm
mỉm. Ở đời, như Gorki phân loại, thì có hai kiểu chết: một là cháy bùng
lên, hai là mục rã. Tôi thuộc loại thứ 2. Nhưng cố gắng làm sao mục rã coi cho
được. Kể cả bùng cháy, cũng đừng bùng cháy khó coi, phải hôn anh Tư? Lại cười
mỉm mỉm. Cua cốm này ăn đậm, cua cũng phải tới kỳ, ăn mới ngon, nữa là
văn chương. Trang Thế Hy đeo bên thắt lưng một điện thoại loại xịn nhất, dường
như có kết nối toàn cầu, màu bạc sáng loáng. Thỉnh thoảng ông lại móc điện thoại,
mở nắp, chiêu một ngụm. Một ngụm thông tin toàn cầu? Rượu này tôi đặt
riêng, nấu bằng nếp, uống thử coi, ngon hơn rượu Tây đó! Chúng tôi cứ
trò chuyện lai rai không đâu vào đâu. Bóng tối len nhẹ vào quán trên những bước
chân mèo, và trong ánh chập chờn, mắt ông lão nhà văn lấp láy. Người như thế có
khi biết mà không nói, có khi nói nửa câu những gì mình nghiền ngẫm trọn đời. Nửa
câu còn lại, để gió sông Hàm Luông giải quyết.
Hồi trưa, lúc ngồi với Trang Thế Hy trong vườn dừa nhà
ông, tôi để ý vườn dừa nhà bên có những miếng thiếc trơn bề rộng độ 3 tấc bao
quanh thân dừa. Ngạc nhiên tôi hỏi, lão nhà văn cho biết, đó là cách ngăn chuột
ăn dừa. Chuột dừa ở xứ cù lao này răng sắc và chịu khó lao động.
Chúng phải gặm xuyên qua vỏ dừa, xuyên cả gáo dừa mới ăn được cơm dừa. Ăn cơm dừa
nhưng không uống nước dừa, mà chỉ uống nước mương. Nên chúng phải trèo lên leo
xuống. Những miếng thiếc kia khác nào những “cột mỡ” đối với chúng. Xuống cũng
té “bịch”, mà lên cũng té “bịch”. Nhưng tôi không có tiền bao thiếc
quanh thân dừa nhà mình, mỗi miếng thiếc tới 30 nghìn đồng lận. Nghĩa
là vì nghèo mà ông có tình thử đạo? Tôi chọc. Tôi bây
giờ “đêm nghe dừa rụng ngày nhìn chuột rơi”, kể cả dừa và chuột hàng xóm. Những
tiếng rơi ấy, nghe buồn lắm. Tôi nhìn dáng ông lão lầm lũi đi con đường
đất lầy lội dọc bờ mương về nhà mình, lúc chúng tôi chia tay nhau. Biết
đâu au revoir (tạm biệt) chẳng là adieu (vĩnh biệt). Ông nói, giọng ngùi
ngùi.
Lần đầu tiên sau 24 giờ gặp nhau, tôi nghe một thoáng hẫng
như đã từng đọc “những ổ gà không khí” có rất nhiều trong văn ông. Những cú hẫng
những ổ gà những khoảng lặng như thế trong văn Trang Thế Hy bao giờ nghe lại đọc
lại cũng khiến tôi ngùi ngùi. Ông đã 83 tuổi, cầu Rạch Miễu mới làm xong, nhưng
đoạn đường vô nhà ông vẫn sình lầy. Bao giờ? Vâng, bao giờ chúng tôi gặp lại
nhau?
THANH THẢO
Nguồn: NVTPHCM
XIN XEM
BÀI KHÁC:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét