Sao ai nỡ dày vò
Đến nhàu nát hồn thơ?
Hai nhà thơ Hoàng Cầm và Hoàng Hưng
Nhớ dạo ấy
Hoàng Hưng ỳ ạch thúc
con Ngựa biển[1] vào đời ngỡ như mặt mình.
Được một lúc thì anh ngớ ra, thấy như không phải – Thế là anh trốn biệt. Đến sáu năm, anh lại tự giới thiệu,
Hoàng Hưng đây Người đi tìm mặt[2]. Vì cái
tên cuốn sách như một lời mời gọi, vẻ
như e lệ, ngỡ ngàng và trăn trở, ngơ ngác, tôi bỗng hoá người đi tìm –
theo anh và cùng anh. Có lẽ anh vẫn ngờ ngợ, chả biết cái mặt mình nó nấp ở chỗ
nào trong cuộc sống vô cùng rắc rối và lắm mặt này, nhưng có lẽ tôi, khi đọc đi đọc lại năm bảy lần cuốn
sách vuông mỏng mảnh y hệt cái mỏng mảnh của mỗi kiếp lụỵ, nặng nợ – càng nặng
nợ hơn so với người bình thường
khác vì chót đa mang cái nghiệp thơ vốn dĩ chẳng mấy khi xuôn xẻ – thì,
chợt tôi thấy hoá ra mình với anh ta là đồng bệnh. Xưa, người ta nói đồng bệnh
tương liên, bây giờ trước những
trang thơ quằn quại này, tôi xin nói: “đồng bệnh tương… tầm!” Không phải “tầm
chương trích cú” mà đúng là tầm… tìm dung nhan, hay tìm chân dung thì phải.
Vì lẽ đó, trong nội dung bài viết này, tôi không đụng đến những bài gọi là “thể
nghiệm” của một nhà thơ đang băn
khoăn nhiều về thi pháp. Tôi chỉ nói về “nỗi niềm thơ” của Hoàng Hưng mà thôi.
Khổ! Con người
ấy rời ghế nhà trường, bước vào đời đã tự nguyện chấp nhận sóng gió cơ mà, ừ, thì đấy, cứ tung lên quật
xuống đi! Chấp nhận rồi mà nào được yên thân làm một chiếc lá rách! Thà làm một
anh kí phán “sớm vác ô đi tối vác về” có tí đồng lương nuôi vợ nuôi con! Nếu thế
thì đã đi một nhẽ. Khốn khổ! Lại đeo đẳng cái nghiệp thơ quái ác, anh ta cứ phải
tìm đến những bậc cha anh từ bao nhiêu thế kỉ, từ tám chín phương trời. Chịu khó học, để rồi trăn trở với châu
ngọc bọc trong chắt lọc tinh hoa cười khóc, niềm yêu thương đùm bọc từ ngàn
hương hoa ngát đến chân tơ kẽ tóc của thi ca mới ân cần quyến rũ làm sao! Không
thể, sau mỗi lần vấp ngã, mỗi trận đòn đau mà dứt được nghiệp dĩ! Phải
viết để phơi gan, giãi óc trước cuộc
đời mà anh yêu, lắm phen yêu đến cuồng nộ khi chẳng may cái mình yêu lại
trở mặt phũ phàng với mình.
Quá yêu nên mới
mải mê tìm – tìm một hình thù giải đáp. Trước cái vô cùng của vũ trụ, cái cực
nhục của mỗi kiếp người, anh
cứ hỏi, hỏi từ quá vãng đến mai sau, từ sợi cỏ may đến cái nền đá trắng
lạnh, nào, mình là ai đây, là thế nào đây ? Cuộc sống trong muôn mặt của nó đến
từ đâu, sẽ đi đến đâu?
Chẳng có một lời giải đáp. Cả đến Chúa trời cũng im như
không có Chúa
Không có Chúa cho người xưng tội
Chỉ chờ xem trừng phạt lúc nào?
Gần anh nhất,
thương anh nhất chỉ có vợ, là Em. Đọc thật chuẩn là Em Mờ, dẫu thương anh, Em cũng mịt mờ trước số phận:
Em linh cảm
suốt một đời dằn dọc
Em bận tâm
giải nghiệm những chiêm bao
Thế thì
còn ai nữa? Có khi Hưng đành thôi,
phó mặc trời đất, hơi đâu mà luẩn quẩn – Thà cứ xếp bằng như Đức Phật ngồi tù.
Nói thế chứ,
làm sao thoát được những cơn đau quái ác vì còn phải sống, còn phải, lúc
cần, quăng hết bản thân mình, để nuôi dưỡng những bản thể khác mà anh yêu lắm.
Nhưng:
Kiếp này
anh lại vụng
Có còn kiếp
khác không em
Hưng thương người Em Mờ ấy quá, lắm lúc
không biết đến thân mình nữa:
Tay quờ sang Em
Ngày
buồn ăn cả vào đêm
Em
ngồi như núi lặng im mà buồn
Cái kiếp Hưng
nó nặng nghiệp oan gia. Chỉ mong nói ra được. Như con chó đen trong đêm gừ gừ,
âm ấm sùng sục cái
Nỗi ngứa
ngáy tiền kiếp
Phát điên vì
không nói được
Có một thời, không biết Hưng ở cõi nào về với gia đình,
mà đến nỗi… vợ khóc một đêm, con lạ một ngày, đến nỗi… bước vào cửa người quen tái mặt, thậm chí giật mình…
một cái vỗ vai.
Xa nữa, có một thời… Dạo ấy, Hưng còn trẻ lắm mà: Một trăm bạc rượu tới
Thiên đường – Tới thiên đường mà sao dễ thế, và rẻ thế! Anh mới tuổi ba mươi bỗng có một đêm, trên thiên đường ấy,
anh đã “mất tân vì cô điếm ế”.
Đời sống đã làm anh hoá đá, nhưng vì anh còn là một đấng
người, lại thêm: đấng–người–thơ, nên dù hoá đá thì vẫn biết rùng mình vì một hạt
mưa.
Anh đã
sống một thời gì mà:
… gần đất xa trời
Ngủ là xum họp với người cõi âm
Tỉnh ra là chết âm thầm
Cái kiếp hoàn toàn bất hạnh. Chả biết từ đâu, bất hạnh cứ
dội xuống như mưa đá. Nhưng, tôi biết nếu không có phương tiện nói ra – nói ra
được là nguôi được – thì sao đây ? Điên ư ? Hay phá phách đời mình ư ? May cho Hưng là còn có Thơ để giải oan khiên u uất của mình lên trang giấy ấm áp tình Người. Người viết hoa, mà anh tin và gửi gắm
nhiều hi vọng.
Thế thì
tại sao có đôi ba người nào đấy cứ tỏ ra bực bội khó chịu khi Hưng tự bộc bạch?
Phải thiết tha với cuộc sống lắm, tôi nhấn mạnh: cuộc sống của dân tộc, của nước
Việt Nam yêu quý – mới biết kêu lên để tồn tại, để làm việc gì đấy hữu ích cho
đất nước. Nếu không thì tự cho mình một viên đạn vào đầu lại dễ. Sống được, thật
khó. Hưng đã can đảm chấp nhận và kêu lên nỗi đau của chính mình – có thể là của
vợ con mình, kêu giùm người khác nữa.
Thiết nghĩ đó cũng là cái quyền sống sơ đẳng của một con người. Dẫu ghét anh ta
đến mấy, ta cũng nên thừa nhận cho anh Hoàng Hưng cái quyền nhỏ nhoi và đau đớn
ấy chứ?
Phải nói, từ Ngựa
biển đến giờ, tôi cũng được đọc ít nhiều tập thơ của các bạn ít tuổi
hơn, cách mình một hoặc hai ba thế hệ – đến Người đi tìm mặt thì, với số
lượng quá ít ỏi nước mắt, (tuổi già
giọt lệ như sương ấy mà) tôi đã khóc được đôi lần. Khóc được thì nhẹ người. Vì cũng đã lâu, đến tập thơ
này, tôi bắt gặp nhiều câu thật hay, thật hiện đại mà vẫn bình dị trong truyền
thống cảm nghĩ Việt Nam. Hình tượng:
Chiếc phi cơ ra đi trong đêm rồi người thơ hỏi vào không trung:
Biết về đâu
mà rơi
cứ làm tôi se
lòng thắt ruột. Khổ! Ấy vậy đấy! Số phận một con người trước vô cùng trời
đất và sâu thẳm lòng người.
Ngày ấy mắt
em xanh
Yêu anh mắt
em bạc vì nước mắt
Những câu thơ
đơn côi, không ra khỏi lòng tôi được nữa
Cái mùi mồ hôi nước hoa
Đêm nhiều
hang ổ mà ta một mình
Tôi đã ứa nước
mắt, do một câu thơ Hoàng Hưng hay đến sững sờ, đến ngơ ngác:
Anh đánh mất
mùi anh trên những sàn đá lạ
Chỉ còn
mưa mùi nước mắt đêm
Chẳng biết cái
gì đã thúc đẩy anh vào một cái rãnh chật, cạn nước chỉ còn bùn. Anh quẫy cựa. Anh sã cánh,
tơi tả hết lông cánh như bị nhốt
trong cái lồng bê tông vài mét khối. Anh thấm thía nông nỗi ấy đến
Ba năm còn
nhớ một con thạch thùng
Mười
năm còn quen ngồi một mình trong tối
Một tập thơ
căng mọng sự thật. Mỗi chữ mỗi dòng đều từ sự thật
mà ứa ra, bật ra, bung ra. Những con chữ vỡ, nổ. Để, thật ra, qua tập thơ này,
Hoàng Hưng đã tìm thấy mặt
mình tuy anh không dám nhận, không phải vì khiêm tốn, mà anh rất thật lòng, cảm
thấy mình chưa vẽ được trọn vẹn chân
dung mình, anh thú nhận:
Quên ngay từng bước vừa đi
Không biết
chỗ bàn chân đặt tới
Vì Hưng này không đếm sang đến B. Từ A anh đi
quanh quẩn mãi chỉ tìm thấy A rồi lại trở về A. Như toán học thì người ta viết A, A’ rồi A”. Hoàng Hưng là thi sĩ tìm
nỗi Đau, ta viết tắt là Đ; anh chỉ tìm thấy Đ và anh lại luẩn quẩn phát hiện ra
nỗi đau tiền kiếp. Như Đ, Đ’ rồi lại đến Đ”.
Đó là nỗi trằn trọc, băn khoăn, day dứt vào nửa cuối thế
kỷ XX mà sau hai cuộc tổng chiến khủng khiếp, tưởng là sau những Postdam, những Nuremberg, Paris, những Genève…sẽ yên ổn cả
hoá ra… Chao ôi !
Thơ đi tìm
mặt Thơ đây
Khiếp thay
mặt đất! Khổ thay mặt mình!
Một cuộc tìm kiếm cũng bất tận. Kết thúc sẽ là hư vô. Anh biết trước như vậy, nhưng anh vẫn
muốn xông vào hư vô nữa mà tìm. Có nhà thơ đã nói:
Tôi bắt đầu đi, nghĩa là tôi đã đến
Nhưng “đến” để rồi làm gì? Có lẽ rất ít thi sĩ nào trên
quả đất này lại “dừng” để hưởng thụ cái thành đạt – dẫu rằng lớn lao – của một
tập thơ, kể cả một đời thơ. Ngay từ lúc sống, có lúc anh ta đã muốn đi vào cái
chết để tìm xem phía sau cái chết là gì nữa cơ!
Tôi mong các bạn,
trước những trang viết bằng máu và nước mắt, hãy mở tấm lòng độ lượng vị
tha.
“La douleur fait les grands poètes”
(Nỗi đau làm nên những thi sĩ lớn)
Alfred
de Musset
Không thông cảm mà cứ đọc, trước hết là thấy thơ quái gì mà khó hiểu thế. Đã không
chịu hiểu thì liền kết tội nó là “đánh đố” thậm chí là xấu nữa, (tuy mấy năm gần
đây quả thật cũng xuất hiện lác đác một số bài thơ vô cảm, vô nghĩa, viết bằng lối làm xiếc chữ
nhưng độc giả vẫn cần bình tĩnh xem xét và phân biệt thực hư) trong khi nó đang ngửa mặt chờ những
tia mắt yêu thương đấy. Đôi khi cũng có vài ba nhà thơ sống ung dung, xe ngựa,
lâu đài sênh sang, gặp toàn may mắn. Nhưng cũng chính vì thế mà mất Thơ. Còn phần lớn đều phải chịu những
nỗi đời đau khổ, thậm chí oan khiên. Nếu có phải nói lên một cái gì đó thì người thi sĩ chỉ chống đỡ với nỗi đau đang cắn
xé mình và chống trả cái ác đang còn làm khổ mình và khổ cả thiên hạ.
Còn thì người thơ, anh ta (hay chị
ta) toàn là người lành, người hiền nhất dưới gầm trời này. Nếu có nổi lên một hình
bóng nào của anh (hay chị) ta thì cũng bất quá là:
Cái quay búng sẵn trên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm
Nguyễn Gia Thiều
Tôi mong – và
điều này, từ khi văn nghệ bước vào cuộc Đổi Mới đất nước, tôi mong ngày càng có
nhiều bạn cảm thông được với mỗi chữ tâm huyết của người thơ, chia sẻ với anh ấy
(hoặc chị ấy) những lo toan, ưu phiền, những quằn quại trong cơn đau sáng tạo,
cơn đau của người mẹ sinh nở và cùng ghé vai gánh đỡ người thơ cái nghiệp quá nặng
để rồi có thể cùng anh ấy hay chị ấy đi tìm mặt mình, bộ mặt ấy là cái
gì đây, là thế nào đây, sẽ ra sao đây trong cõi nhân gian còn đầy rắc rối, đầy
hiểm hóc và đầy bí ẩn?
Hoàng Hưng đã
đi tới một tính cách rõ rệt trong thơ. Nỗi quằn quại của đời anh, ngòi bút anh đang nói với chúng ta đôi
điều mới lạ về số phận con người. Anh còn phải tiếp tục đi nữa, hoàn chỉnh nhân
cách thi sĩ, nhìn thẳng vào số phận nghiệt ngã của mình và có thể của nhiều người khác nữa. Anh còn đi kể cả có
lúc:
… Quên ngay từng bước vừa đi
Không biết
chỗ bàn chân đặt tới.
Hà Nội, cuối tháng 4-1994
HOÀNG CẦM
Nguồn: Văn Nghệ
_____________
[1] Tập thơ của Hoàng Hưng, NXB Trẻ, 1988
[2] Tập thơ của Hoàng Hưng, NXB Văn hoá Thông tin, 1993
XEM BÀI KHÁC:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét