Nhà văn Di Li
Cách đây hơn
chục năm có một cô gái rất trẻ, cao ráo, ăn mặc sang trọng, hiện đại, rất Hà Nội,
mắt sáng và đẹp, trên má phơ phất chút phấn mỏng thôi mà tôn vẻ mĩ miều, tới trụ
sở báo Người Hà Nội gặp thi sĩ Bế Kiến Quốc, bấy giờ là Tổng
biên tập báo...
Chuyện là, Tổng
biên tập Bế Kiến Quốc có đọc một truyện ngắn của tác giả Nguyễn Diệu Linh. Truyện
ngắn ấy không phải xuất sắc lắm, đi được, song ông vẫn nhận ra sau cái còn mong
manh ấy, một cây bút có nhiều hứa hẹn. Cũng như sự gặp gỡ ban đầu của Quốc, với
nhiều cây bút khác, đang chập chững vào nghề, để tận tình giúp nhau, sau này
thành danh, đôi mắt xanh Quốc đã tìm thấy gì ở cái cô Diệu Linh này? Bế Kiến Quốc
nói chuyện với tác giả xong, đã khuyên cô gái xinh tươi ấy nên bỏ cái tên cúng
cơm đi và lấy bút hiệu là Di Li.( Di Li là đầu của hai từ Diệu Linh).
Di Li, cái tên
ấy cũng hay nhỉ! Từ đó Di Li là bút hiệu chính thức của cô gái xinh đẹp kia. Và
kì lạ thay Diệu Linh thì không kì diệu, chưa linh, còn Di Li thì bắt đầu diệu
kì lên hương.
Sự lên hương
diệu kì được tính từ năm 2006. Khi ấy Tạp chí Văn nghệ Quân đội có
tổ chức cuộc thi truyện ngắn và cô góp vào vài truyện. Thực ra, trước đó, Di Li
đã viết từ rất sớm. Những truyện ngắn của cô in ở Hoa Học Trò hay
ở Người Hà Nội chả cơm cháo gì, nhưng việc cô tham dự cuộc thi
truyện ngắn hai năm 2005-2006, của Tạp chí Văn nghệ quân đội với tác phẩm“Cocktail”
và “Ma học trò” đã làm nên một dấu ấn của một đời văn và góp thêm trên văn đàn
một giọng văn lạ, hiện đại với chất ma mị của các chi tiết truyện ngắn, nhất là
trong tác phẩm “Cocktail”.
Như một sự bứt
rào ngoạn mục, sau đó một thời gian ngắn, Di Li trình làng cuốn “Trại Hoa Đỏ”.
“Trại Hoa Đỏ” thuộc thể loại trinh thám kinh dị. Thể loại có ở văn chương Việt
Nam ta từ trước cách mạng, với những: Thám tử Đoan Hùng, Lệ Hằng với chí phục
thù, Người nhạn trắng, Long hình quái khách, Tráng sĩ một
chân v.v…bao nhiêu năm qua đi, biến mất trong dòng chảy văn học, bấy
nay dạt trôi như vô tăm tích, thậm chí có thời bị coi là thứ văn học rẻ tiền,
kèm theo cụm từ “tiểu thuyết ba xu” xuất phát từ những cuốn tiểu thuyết được
bán đồng giá ba xu. Ngày nay văn học thế giới đã thay đổi. Quan niệm này cũng
đã lỗi thời. Ý thức được điều ấy, Di Li, người đầu tiên thuộc thế hệ hiện đại,
đã làm sống dậy thể loại tiểu thuyết này với hương khí mới, tốc độ và văn phong
hiện đại gắn với đời sống hiện tại. Nó khác hẳn với lối viết cũ chậm chạp, đôi
khi sên sến của những cuốn tiểu thuyết trinh thám trước và sau năm 45, từng in
dài kỳ trên các tờ báo ăn khách.
“Trại Hoa Đỏ”
chắc về cách dựng truyện, những chi tiết li kì và số phận bi thương khiến cho
cuốn sách lôi cuốn và hấp dẫn. Nó từng làm nôn nao thế giới mạng và sau đó “Trại
Hoa Đỏ” được vinh danh ngay Giải Ba, trong cuộc thi tiểu thuyết 2007- 2010 do Bộ
Công An phối hợp cùng Hội Nhà văn tổ chức. Thế là lại có một Di Li của tiểu
thuyết, ngoài cái thương hiệu truyện ngắn cô vừa tạo nên ở Tạp chí VNQĐ.
Di Li là nhà
văn chuyên nghiệp. Trong gần chục năm, cô ra hơn 20 đầu sách: truyện ngắn, tiểu
thuyết, tản văn, bút ký, hồi ký, sách chuyên ngành, truyện dịch xuôi, dịch ngược…
rồi gần đây nhất là đầu năm 2012 với cuốn ký sự chân dung nhà văn: “Chuyện làng
văn”.
“Chuyện làng
văn” bao gồm nhiều khuôn mặt văn chương nổi tiếng và chưa nổi tiếng mà Di Li dựng
tạo. Là người có mặt ở cuốn sách đó nên tôi không võ đoán nói nó hay. Song cũng
như tiểu thuyết, tản văn, hồi kí hay sách dịch có tên Di Li, “Chuyện làng văn”
cũng là món ăn có thể nói đắt hàng như tôm tươi. Riêng đối với văn học dịch, Di
Li đã đóng góp cho văn đàn 6 cuốn tiểu thuyết. Di Li sử dụng được bốn ngoại ngữ
là Anh, Pháp, Đức, Italia, từng mở cả lớp dạy tiếng Anh cho nhiều văn nghệ sĩ
thành danh tới làm học trò.
Khả năng viết
của Di Li rất nhanh nhậy. Có năm tôi đặt cho cô viết một truyện ngắn 2000 từ
cho báo Tết, nơi mà tôi giúp đỡ việc biên tập. Lập tức cô gửi nó chỉ sau vài
ngày. Và cái truyện ngắn viết về nhân vật chính là một cô bé ảo thuật ấy hết sức
nhân ái, cảm động, đã đứng trên báo Tết một cách nghiêm túc. Những truyện ngắn
được viết theo “đơn đặt hàng” như thế, Di Li có không ít, nó tức thời không chỉ
cung cấp cho văn đàn những nhu cầu truyện hay hiện tại, mà còn chứng tỏ
cô phịa rất nhanh và tài. Nói tài vì có người viết chuyện thật
mà như phịa, còn chuyện cô phịa, dựng lên, cả những câu chuyện về chiến tranh
mà cô chưa từng tham dự, cho dù không quá xuất sắc, có kích cỡ sức vóc lớn,
song nó được bạn đọc tin cậy và tin rằng câu chuyện có thật.
Trong tất cả
các mảng văn học đã từng sáng tác, tạp bút, tản văn của Di Li cũng linh hoạt và
thú vị. Những bài báo cô viết trong những chuyến du ngoạn vòng quanh thế giới,
các chuyến khám phá phượt hàng năm khi xuân về, bao giờ cũng
không chỉ giúp độc giả nhận ra một vùng đất lạ, mà còn làm người ta hiểu thêm về
văn hóa, phong tục tập quán vùng miền, sự sinh động của thế giới phẳng và nhất
là đôi khi liên hệ một cách tế nhị tới chuyện trong nước, những tồn đọng có
tính phê phán về văn hóa và lối sống, để người yêu mảnh đất sinh ra mình phải
suy ngẫm, vui buồn.
Cuốn “Nhật kí
mùa hạ” xuất bản năm 2011 cũng thể hiện cái tài viết chuyện thiểu nhi cho cả
người lớn và trẻ con đọc. Những câu chuyện tuổi thơ không hề giấu diếm đã vẽ ra
không chỉ một khuôn mặt nghịch ngợm, cá tính từ thuở nhỏ, mà ở đó còn đầy đủ dư
vị của những năm tháng không xa, với những hạnh phúc, đau khổ trong con mắt trẻ
thơ. Những câu chuyện mùa hạ trẻ trung, văn phong trong sáng,
khác hoàn toàn với giọng văn lạnh lùng của Di Li ở tiểu thuyết, khác với giọng
văn thông minh, sắc sảo ở những truyện ngắn.
Trên văn đàn
Việt hiện đại, nếu nói về văn chương với văn hóa vùng miền, có ba người đẹp rất
sắc nét rõ ràng. Phía Bắc có nàng Đỗ Bích Thúy, như Cô gái miền sơn cước Tây
Bắc, mang tới cho bạn đọc nhiều điều thú vị tỉ như âm thanh chưa nghe thấy bao
giờ sau những hàng rào đá. Phía Nam có nàng Nguyễn Ngọc Tư, cho thiên hạ biết
cõi trời bao la trên những cánh đồng vàng bất tận và những khuất ẩn rất vụn vặt,
rất đời thường của con người. Còn ở eo miền Trung - Huế với dải lụa buồn, có
nàng Trần Thùy Mai, và người ta có thể tìm ở đó, trong nhiều áng văn của nàng,
những cung bậc khác nhau của người miền Trung, có khi thăm thẳm buồn, kiểu kiều
nữ mang sắc màu tím Huế. Người đẹp Di Li sinh ra ở Hà Nội, song cô không thuộc
vào miền đất nào cả. Ngay cả trong những câu chuyện cô viết tuổi thơ ở phố Đại
Cồ Việt, hay những cuốn sách li kỳ mạo hiểm, cũng ít mang dấu tích phong rêu của
một Hà Nội thực là Hà Nội. Di Li là một điển hình của sự pha trộn văn chương
ngôn ngữ Việt ở thời hội nhập, thời mà con gái đi năm châu bốn biển với nhiều
ngoại ngữ, để thêm một vế nào đó, hay đổi vế trai ra gái, cho câu ca dao
xưa: Làm trai cho đáng nên trai/ Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng...
Ở đây, Di Li là một người của thế giới, chứ không phải hạn hẹp trong biên cương
Việt Nam.
Năm nay Di Li
chả còn xuân xanh như khi cô tới gặp thi sĩ Bế Kiến Quốc nữa. Cô đã là mẹ của một
cháu gái. Gái có chồng. Hàng ngày cô tíu tít tràn ngập với hàng núi việc, nào
là dạy học, nào là họp báo ra mắt sách, nào là một chương trình sự kiện do cô tổ
chức. Cô thoắt ẩn, thoắt hiện khắp các nẻo miền và mất hút ở một đất nước xa
xăm nào đó. Song gặp cô ở Hà Nội, dù mùa hè tới 40 độ, vẫn thấy một nàng Di Li,
không bao giờ mang khẩu trang và áo chống nóng, cô phơi tay trần rám nắng,
khuôn mặt tươi tắn mà nghiêm nghị, luôn nhìn thẳng mà vẫn như có ma lực cho khối
chàng trai ngoái theo tưởng lầm cô với một người mẫu thời trang hay một diễn
viên nào đó.
Kết thúc bài
viết này, tôi muốn nhắc lại kỉ niệm gặp nữ văn sĩ đẹp lần đầu tiên tại Nhà xuất
bản Hội nhà văn. Năm đó, 2006, tôi in chung trong tập truyện ngắn chọn lọc hai
chương trong tiểu thuyết Quyên, trong đó có “Cocktail” của Di Li. Biết tôi là
tác giả của “Quyên” qua lời giới thiệu của nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư. Cô gái
xinh đẹp có khuôn mặt bấy giờ còn mộc kia reo lên: Em rất thích truyện ngắn của
anh. Tôi không nói gì, bởi nhiều khi người ta chả đọc gì, cứ lấy lòng nhau mà
nói vậy. Di Li thông minh, nhìn cái nheo mắt của tôi, mới nhận xét về các chi
tiết của truyện. Việc ấy là viên gạch đầu tiên tôi tin Di Li. Rồi năm nào, cô với
tôi đi ra phố sách Nguyễn Xí. Vài độc giả nhận ra tôi, xin chữ kí. Di Li cười rất
tự nhiên bảo, em ghen tị với anh đấy, em đã in và bán tới 6, 7 đầu sách ở đây,
cũng bán chạy, mà chả ai nhận ra em cả. Tôi nhìn vào đôi mắt Di Li khi ấy. Ánh
mắt vui thật, chứ không phải sự bực bội hay lấy lòng. Với tôi, Di Li luôn là
người bạn văn chân thành không khách sáo. Cuốn nào cô đọc, cô nói là đọc và cuốn
nào đọc cũng thường rất kĩ, để đưa ra những nhận xét tinh tế và sâu sắc với những
phát hiện về chi tiết và tác giả, không thua kém gì các nhà phê bình kinh viện.
Tôi rất cảm ơn bạn văn Di Li khi cô là người đầu tiên trong cuộc hội thảo về tiểu
thuyết Quyên đã phát hiện ra tư tưởng ở hình tượng chủ định Vô Tăm Tích của
tôi và phát biểu nó dưới ánh sáng triết thuyết của nhà tâm lý học người Mỹ
Abraham Maslow.
Tôi sống nhiều
ở xứ người nên cũng chỉ thi thoảng mới có dịp gặp Di Li, nhưng mỗi lần gặp lại,
lại nhận thêm một điều gì đó lấp lánh ở văn và đời của người bạn văn thật đẹp
và chân thành này. Theo tôi Di Li là Người đẹp viết đẹp trong
lứa các nhà văn đang hết sức sung sức hôm nay. Công ty sách Phương Đông cũng
chuẩn bị ra mắt tập 18 truyện ngắn của Di Li được dịch sang tiếng Anh với nhan
đề “The Black Diamond” (Viên kim cương đen), là cuốn sách văn học đầu
tiên ở Việt Nam được phát hành bởi một công ty sách tư nhân. Nhà văn Mỹ Charles
Waugh sau khi đọc cuốn sách đã nói rằng “Di Li đã bắt mạch được xã hội Việt
Nam. Với một nhận thức sắc bén về những truyền thống xưa cũ, các câu chuyện của
cô đã phản ánh một cách tỉ mỉ những gì đang diễn ra ở một thế giới hiện tại bằng
phong cách viết điềm tĩnh, lạnh lùng, châm biếm và không kém phần hồi hộp. Nếu
bạn muốn biết những gì đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay, nếu bạn muốn được cười,
được khóc, được rùng mình vì sợ hãi, hoặc suy ngẫm sâu hơn về thế giới đương đại,
hãy đọc Di Li.”
NGUYỄN VĂN THỌ
Nguồn: NVTPHCM
_______________
Ghi chú: Nhà văn Di Li sinh năm 1978 tại Hà Nội. Cô có hai bằng cử
nhân ngôn ngữ Anh và ngôn ngữ Đức, thạc sỹ Quản lý giáo dục. Hiện là giảng viên
bộ môn văn hóa Anh-Mỹ, trường Cao đẳng Thương mại & Du lịch Hà Nội, chuyên
viên tư vấn quảng cáo & PR, giảng dạy bộ môn PR cho trường ĐH Hòa Bình, viết
văn, viết báo và dịch thuật. Cô đã có nhiều tâp truyện ngắn bán chạy như “Tầng
thứ nhất” (2007), Điệu Valse địa ngục (2007), 7 ngày trên sa mạc (2009), Tháp
Babel trên đỉnh thác Ánh trăng (2010), Đôi khi tình yêu vẫn hay đi lạc đường
(2010), Chiếc gương đồng (2010), tiểu thuyết “Trại Hoa Đỏ” (2009) đã
được tái bản 3 lần với số lượng hơn 1 vạn bản in; tập bút ký về 29 thành phố
trên thế giới “Đảo thiên đường” (2009); hồi ký “Nhật ký mùa hạ” (2011);
Tản văn “Cocktail thị thành” (2011) và mới đây nhất là tập ký
sự chân dung “Chuyện làng văn”(2012).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét