Lúc ấy tôi không hề biết Thu Bồn là ai chỉ đoán rằng Thu
Bồn là một nhà thơ từ miền Bắc vào lấy bút danh Thu Bồn, tên một dòng sông miền
Trung, như Xuân Thiều lấy bút danh Nguyễn Thiều Nam… Và rồi suy nghĩ ấy cứ định
vị trong tôi nhiều năm. Nhưng có một điều: đọc và dạy Bài ca chim Chơ
rao của Thu Bồn tôi thật sự cảm phục, ngạc nhiên đến sững sờ. Hồi đó
tôi chưa hề đến Tây Nguyên, chỉ biết Tây Nguyên qua Trường ca Đam Sam và
nhất là qua tác phẩm Đất nước đứng lên... Thế mà đọc Bài ca
chim Chơ rao, tôi đã cảm nhận được chất bi tráng, dữ dội, chất Tây Nguyên
thấm đẫm trong từng lời thơ. Đến nay đã hơn 40 năm trôi qua, tôi vẫn nhớ đoạn
trích nói về cái chết của hai chiến sĩ cách mạng: Hùng người Kinh và Rin người
Thượng.
Nhà thơ Thu Bồn
Đây là đoạn mở đầu:
Máy rú xe từ từ lăn bánh
Hai chiến sĩ điềm nhiên đến pháp trường
Hùng và Rin nhìn trời mây cây cỏ
Lần cuối cùng vĩnh biệt quê hương
Hai chiến sĩ bị kẻ thù trói chặt vào cây để hành hình
Trên nương sáng nay lúa vừa ngậm sữa
Chúng đem Hùng, Rin trói chặt vào cây
Thu Bồn ca ngợi tinh thần dũng cảm bất khuất của hai
anh
Ôi chim đại bàng trong bão tố
Đầu sắp rơi mà cánh vẫn tung bay
Trước cái chết Rin nhớ về người mẹ đã cơ cực suốt đời để
nuôi anh:
Mẹ ơi! Con vẫn ở giữa lòng đất nước
Trời nắng thiêu nghe rìu mẹ chém cây
Chiếc rìu cùn như đời mẹ cực
Đã cho con bao bát cơm đầy
Anh xót xa nhớ tới người yêu, cô Sao, đang bị giặc giam cầm:
Sao ơi! Em là con bướm trắng
Mắc giữa cành gai sắc dập vùi
Bao giờ em thoát đời tù ngục
Về với lũ làng múa hát vui
Rin nuối tiếc vì đã không còn được trở về quê Hùng uống
nước dừa và gặp người con gái đẹp, người yêu của Hùng, Rin nghĩ về mối tình
đoàn kết Kinh Thượng:
Thôi, những người con dân tộc
Sẽ thay Rin đi uống nước dừa
Nước ngọt như mối tình Kinh Thượng
Gạt hết hiềm thù cay đắng năm xưa
Kẻ thù man rợ tra tấn Hùng và Rin và chúng thiêu sống các
anh. Giọng thơ Thu Bồn vừa đau đớn vừa hào sảng:
Sợi dây trói cháy thành tro bụi
Nhưng tim anh hùng còn đập giữa khói đen
Hai ngọn đuốc rùng rùng tiến lại
Cái chết đâu làm ta phải yếu hèn
Lửa rực hai khuôn mặt bầu rạng rỡ
Hai vòng tay lửa siết vào nhau
Người anh em ơi ! Đây là lời của Đảng
Gắn bó đến cùng cả lúc thương đau
Hai chiến sĩ hy sinh rồi, Thu Bồn đã miêu tả một cách thật
gợi cảm sống động nỗi đau thương uất hận. Đây là của con người:
Ơi ới tiếng người tiếng cồng gào thét
Và của cảnh vật:
Dừa réo lên vuốt cong ngàn tia kiếm
Loài vật cũng tỏ thái độ:
Con hổ gầm rung vách núi
Bầy voi đi phun nước trắng dòng sông
Tình thương yêu của dân làng với hai chiến sĩ người Kinh
và người Thượng khiến linh hồn các anh luôn được sưởi ấm:
Lệ dân làng thấm sâu vào đất
Ủ nóng hai anh giữa núi đồi
Hãy nhận lấy những hoa rừng đẹp nhất
Cả quê hương vùng dậy kia rồi
Toàn bộ đoạn trích trong sách giáo khoa hay từng câu từng
chữ, từng hình ảnh. Nhưng tôi thấy Thu Bồn đặc biệt xuất thần trong đoạn kết:
Chim Chơ rao ơi! Bay về buôn vắng
Báo tin buồn đi khắp mọi nơi
Mặt trời đã rụng hai tia nắng
Rừng Tây Nguyên lửa đỏ sáng ngời
Người ta thường ví kẻ thù là bóng tối, bóng đêm và cách mạng
là ánh sáng, ánh nắng. Ví hai chiến sĩ cách mạng người Kinh và Thượng như hai
tia nắng nhà thơ muốn nói: họ là những người góp phần làm nên ánh sáng, nắng ấm
trong cuộc đời này. Họ đã hy sinh, như hai tia nắng rụng nhưng ánh sáng, nắng ấm
của cách mạng thì còn mãi. Sự hy sinh của hai anh càng làm ánh lửa của tinh thần
bất khuất của người dân Tây Nguyên thêm rạng rỡ.
Bài ca chim Chơ rao để lại trong tôi ấn
tượng về tài thơ độc đáo của Thu Bồn. Tuy câu chữ, hình ảnh không mới lạ nhưng
đọc lên thấy cả một không khí Tây Nguyên đầy bi tráng, giọng thơ cuồn cuộn như
nước sông Ba… Sau đó tôi còn được nghe nhiều chuyện về ông. Chuyện ông cõng con
vượt Trường Sơn ra Bắc, chuyện càng uống rượu nói càng hay và những mối tình
thường xuyên thay đổi của ông. Đến khi Thu Bồn vào Sài Gòn rồi về Bình Dương
đóng đô ở suối Lồ Ồ thì tôi mới có dịp gặp. Lúc ấy tên tuổi nhà thơ, đại tá Thu
Bồn lan rộng cả dải đất miền Đông. Ông đi nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người, giao
tiếp bằng rượu, thơ và… cải lương cùng vợ ông, nghệ sĩ cải lương Lý Bạch Huệ biểu
diễn. Ở Đồng Nai, vợ chồng ông thường tham gia sinh hoạt ở Hội Văn nghệ. Các buổi
họp mặt anh em văn nghệ Đồng Nai, lễ mừng thọ nhà văn Hoàng Văn Bổn 70 tuổi,
các trại sáng tác do Hội văn nghệ tổ chức tại Đà Lạt đều có mặt. Ông có mối
quan hệ thân thiết với nhiều anh em văn nghệ Đồng Nai, trong đó nhà văn Hoàng
Văn Bổn là bạn viết cùng trang lứa. Ngoài ra còn có các cây bút đàn em khác như
Nguyễn Đức Thọ, Phạm Thanh Quang, Xuân Bảo, Hiền An Giang, Đặng Minh Hân, Hải
Ba… đều coi ông như người thầy, người anh. Ông đã từng giới thiệu chất lính
trong thơ Phạm Thanh Quang, phóng xe đến nhà Hải Ba để lấy bài thơ in trong một
tuyển tập, uống rượu và nói chuyện văn cùng nhà văn Nguyễn Đức Thọ. Các cây bút
Đồng Nai vẫn nhớ những lời nhận xét thẳng thắn, thấu lý đạt tình của ông về thơ
trong trại sáng tác ở Đà Lạt năm nào. Trên dọc đường đi và khi tới Đà Lạt ông gặp
từng người trao đổi về sáng tác của họ nhằm giúp anh em văn nghệ nâng cao chất
lượng thơ lên. Vợ chồng ông còn rất thân thiết với Trường trung học sư phạm Đồng
Nai, Sở giáo dục đào tạo Đồng Nai, đã từng đi biểu diễn giao lưu ở một số trường
trong tỉnh. Không chỉ giới văn nghệ sĩ, các nhà giáo mà cả những người làm kinh
tế cũng biết đến Thu Bồn. Ông là một nhà thơ đầy cá tính. Vóc dáng cao lớn, tóc
bạc phơ phủ kín gáy, giọng Quảng Nam đặc sệt. Ở ông, người ta vừa thấy sự tinh
tế, thông minh, tài hoa của một người có tầm văn hóa sâu rộng lại vừa đậm chất
Tây Nguyên: bộc trực, chân thật, hoang dã… Sự tinh tế, tài hoa thể hiện rõ nét
trong bài thơ Tạm biệt, một tuyệt bút của ông. Bao nhiêu người làm
thơ về Huế, về sông Hương thấy ở sông Hương dòng sông thơ mộng, trữ tình. Nhưng
ít người như Thu Bồn, phát hiện ở dòng sông này cái khía cạnh văn hóa, lịch sử:
Con sông dùng dằng con sông chẳng dứt
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
Con sông chảy vào lòng tạo nên nét thâm trầm, sâu lắng, dịu
dàng của xứ Huế, con người Huế.
Chất Tây Nguyên thì đã thành gốc rễ của đời ông. Đến nhà
Thu Bồn chúng ta sẽ thấy cả Tây Nguyên giữa đồi núi Bình Dương. Một căn nhà
rông với đủ gùi, rựa, cồng chiêng, rượu cần. Nghe đâu bằng sức lao động của
mình ông đã dựng nên căn nhà này, Thu Bồn rinh cả Tây Nguyên về nhà ông. Còn chất
bộc trực, chân thật thì nhiều người phải ngạc nhiên, buồn cười. Ông đã không ưa
ai thì nói vỗ vào mặt, không ngại ngùng nể nang, nhưng ông lại là người rất
tình nghĩa, quý trọng nghĩa tình đồng đội, quý trọng bạn văn.
***
Cuộc đời và tác phẩm của Thu Bồn là một minh chứng cho sự
gắn bó máu thịt của nhà thơ với nhân dân, với Tổ quốc và cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Nhờ sự gắn bó đó Thu Bồn đã có hàng chục tập trường ca, thơ, tiểu thuyết,
tiểu luận có giá trị. Sinh ra ở quê hương Quảng Nam, nhập ngũ từ năm 16 tuổi, tập
kết ra Bắc trở về chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên vào năm 1960, anh bộ đội
Hà Văn Trọng đã viết nên bản trường ca Bài ca chim Chơ rao.
Cái bút danh Thu Bồn có từ đó. Cánh chim Chơ rao đã đưa Thu Bồn ra nước ngoài
nhận giải thưởng Văn học Á-Phi, đưa thẳng Thu Bồn vào Hội nhà văn Việt Nam, chẳng
phải qua thủ tục hai người giới thiệu. Thu Bồn trở lại Tây Nguyên tiếp tục sáng
tác và sau đó trở ra Hà Nội làm giáo vụ ở trường viết văn Nguyễn Du (cùng nhà
văn Phan Tứ). Với năng khiếu bẩm sinh cộng với sự trải nghiệm cuộc sống, trải
nghiệm văn hóa Thu Bồn luôn có một bút lực dồi dào. Tiếp theo Bài ca
chim Chơ rao, ông đã viết nhiều trường ca và tập thơ, tiểu thuyết và tập
sách cuối cùng của ông là tập tiểu luận Đánh đu cùng dâu bể. Con
người sức vóc ấy, hăm hở đi, hăm hở viết, hăm hở làm kinh tế vườn đã phải dừng
lại ở cột mốc 69 tuổi vào ngày 17/6/2003. Sau chuyến đi thực tế Tây Nguyên bị đột
quỵ, ông yếu dần. Ngày Hội thơ Việt Nam đầu tiên ở Đồng Nai tổ chức ở Trung tâm
văn hóa tỉnh, ngồi cạnh giáo sư Trần Thanh Đạm, ông còn gật gù khen nghệ sĩ Hồng
Vân ngâm bài thơ Tạm biệt hay. Khi bước lên bục để chụp ảnh
chân ông cất bước nặng nề, nhọc nhằn. Một thời gian sau trong buổi liên hoan tổng
kết ở Hội văn nghệ Đồng Nai ở khách sạn 57 tôi để ý thấy ông buồn lặng lẽ không
nói.
Bây giờ ông đã về trời. Cuối năm 2002 chúng ta mất nhà
thơ lớn Tố Hữu, đầu năm 2003 nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi ra đi.
Giữa năm 2003 nhà thơ Thu Bồn rời khỏi cõi đời. Một thế hệ nghệ sĩ cách mạng đã
từng góp phần làm hưng phấn cả dân tộc trong chiến tranh và cách mạng lần lượt
ra đi. Nhớ đến ông tôi nhẩm đọc câu thơ tuyệt vời của ông viết về cái chết:
Mặt trời đã rụng hai tia nắng
Mỗi nghệ sĩ chúng ta bằng tác tác phẩm của mình đã chiếu
rọi vào tâm hồn, trí tuệ người đọc. Cái tia nắng lộng lẫy có tên Thu Bồn ấy đã
rụng xuống nhưng ánh sáng từ những vần thơ của ông thì còn mãi.
BÙI QUANG TÚ
Nguồn: Văn Nghệ số 30/2019
TIN KHÁC: