Thứ Ba, 16 tháng 7, 2019

HƯỚNG ĐẾN NHẤT THỂ MỚI CON NGƯỜI - TỰ NHIÊN- XÃ HỘI (TRÍCH)

Xuất hiện tại Anh, Mỹ vào những năm cuối thế kỷ XX, trong bối cảnh môi trường sinh thái toàn cầu bị khủng hoảng trầm trọng, Phê bình sinh thái (hay còn có tên gọi khác là Nghiên cứu Xanh) đã nhanh chóng lan rộng đến nhiều quốc gia và trở thành bộ môn khoa học có khả năng thu hút sự quan tâm của tất cả những ai quan tâm đến vấn nạn môi trường. Đây là bộ môn nằm ở vị trí giao thoa giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn, có mục đích chung là nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, văn học và môi trường sinh thái. Bởi thế, về bản chất, tiếp cận theo hướng nghiên cứu phê bình sinh thái là hướng tiếp cận liên ngành.
Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp

Thuật ngữ sinh thái học (Ecology) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, bao gồm Oikos (chỉ nơi sinh sống) và Logos (học thuyết). Theo đó, sinh thái học là bộ môn nghiên cứu về nơi sinh sống của các sinh vật, đối tượng của nó là toàn bộ mối quan hệ giữa các loài sinh vật với môi trường. Trong cái nhìn của sinh thái học, giữa các loài sinh vật và môi trường sống luôn có mối quan hệ chặt chẽ, một khi sinh thái bị đảo lộn, sự sống của muôn loài cũng chấm dứt. Trong thế giới sinh vật, con người được coi là sinh vật phát triển cao nhất, bởi thế, từ chỗ tập trung nghiên cứu mối quan hệ “cơ thể - môi trường”, sinh thái học dần chuyển sang nghiên cứu mối quan hệ “con người - tự nhiên”, “xã hội - sinh quyển”. Cùng với những chuyển dịch theo hướng mở rộng, sinh thái học đã vượt ra khỏi “phạm vi sinh vật học thuần túy; tiếp cận với những vấn đề triết học”.

Từ Hoa Kỳ và Anh quốc, phê bình sinh thái nhanh chóng ảnh hưởng đến các quốc gia châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Ngay từ đầu thế kỷ XXI, một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã bắt tay dịch và giới thiệu về phê bình sinh thái, tạo đà cho bộ môn khoa học này thâm nhập vào các trường Đại học, các Viện nghiên cứu, trở thành một hướng nghiên cứu trong các luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ.

Đến nay, sự xuất hiện của phê bình sinh thái được hiểu như là một chuyển hướng đầy thích ứng của nghiên cứu văn học trước bối cảnh văn hóa đương đại, nhưng về bản chất, đây là khuynh hướng mở, vì thế, nó cho phép các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu mối quan hệ giữa văn học và môi trường trong các thời đại văn học khác nhau, từ tiền hiện đại đến hậu hiện đại. Với một hướng nghiên cứu giàu tiềm năng như phê bình sinh thái, còn rất nhiều vấn đề cần đến sự chung sức tìm hiểu của giới nghiên cứu, giảng dạy văn học và của đông đảo những ai quan tâm đến chủ đề sinh thái trong các diễn ngôn văn học, nghệ thuật.

Phê bình sinh thái bắt đầu được nói đến ở Việt Nam trong khoảng trên dưới vài chục năm qua. Trước hết, trong lĩnh vực sáng tác, người đọc có thể nhận thấy tư tưởng sinh thái xuất hiện trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Ngọc Tư, Mai Văn Phấn, Đỗ Bích Thúy, Cao Duy Sơn,… Có thể coi Sống mãi với cây xanh của Nguyễn Minh Châu là tác phẩm mở đầu cho khuynh hướng văn học sinh thái ở Việt Nam đương đại. Trong lĩnh vực học thuật, bài thuyết trình của GS. Karen Thornber (Đại học Harvard – Hoa Kỳ) tại Viện Văn học vào năm 2011 là cú hích quan trọng để các nhà nghiên cứu Việt Nam hứng thú tìm hiểu về phê bình sinh thái. Mối quan tâm về phê bình sinh thái gần đây đã được nhiều nhà nghiên cứu hưởng ứng, trong đó đáng chú ý là các công trình của Trần Đình Sử, Đỗ Văn Hiểu, Trần Ngọc Hiếu, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Lê Lưu Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Đăng Điệp, Đặng Thị Thái Hà,… Đặc biệt, hai chuyên luận về phê bình sinh thái của Trần Thị Ánh Nguyệt – Lê Lưu Oanh và Nguyễn Thị Tịnh Thy đã được xuất bản.

So với văn học sinh thái, phê bình sinh thái xuất hiện muộn hơn và gây nhiều tranh cãi hơn. Nhiều người cho rằng, những sáng tác đầu tiên của văn học sinh thái đã xuất hiện trong thời kỳ lãng mạn thế kỷ XIX,trong bối cảnh con người bị cuốn theo phát triển kinh tế và choáng ngợp bởi những thành tựu của văn minh công nghiệp, gần như sao lãng môi trường sinh thái, thờ ơ với những thương tổn môi trường do chính con người gây ra. Từ thời đại khởi đầu công nghiệp hóa ấy, một số cây bút nhạy cảm của chủ nghĩa lãng mạn đã bắt đầu nhìn thấy được mặt trái của văn minh - đó là sự tước đoạt tàn nhẫn môi trường sinh thái của con người.

Phê bình sinh thái giai đoạn sơ kỳ coi trọng vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học và sự bình yên của môi trường sống ở các địa phương. Đến giai đoạn sau, nhất là từ thế kỷ XXI đến nay, phê bình sinh thái gắn với nhân học và văn hóa học, đặt bình diện xã hội làm trung tâm, đặc biệt quan tâm đến vấn đề đô thị hóa và công lý môi trường. Thực tế, ngay từ cuối thập kỷ 80, trong nhiều báo cáo về môi trường, người ta đã bắt đầu quan tâm đến sự biến đổi khí hậu, mức độ của carbon dioxide trong khí quyển và nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, làn sóng tị nạn môi trường do hạn hán, bão lụt, mưa axit diễn ra ở nhiều nơi. Tiến trình phá hủy sinh quyển ở quy mô lớn đã khiến cho nhiều loại sinh vật bị tuyệt chủng, nhiều dòng sông bị bức tử, ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng.

Những kêu gọi của các nhà khoa học theo chủ nghĩa môi trường hầu như bị lờ đi trong thực tế. Trước thực trạng ấy, sự vào cuộc của văn học sinh thái và phê bình sinh thái có ý nghĩa như một cam kết tự nguyện về trách nhiệm của nhà văn trước vấn nạn môi trường. Trong cái nhìn của các nhà phê bình sinh thái “mọi hành vi của con người đều làm biến đổi môi trường”. Vì thế, xây dựng đạo đức môi trường trên tinh thần nhân văn hiện đại phải được coi là câu chuyện liên quan đến bất cứ ai và ở bất cứ quốc gia nào, không phân biệt giới tính, giàu nghèo, địa vị xã hội.

Trước hết, sự xuất hiện của phê bình sinh thái có ý nghĩa như một đối thoại văn hóa, khi nó đề xuất tư tưởng lấy sinh thái làm trung tâm thay thế tư tưởng coi con người là trung tâm.

Thứ hai, như là hệ quả của việc định vị tư tưởng triết học sinh thái trung tâm, các nhà phê bình sinh thái không đối lập mà luôn tìm kiếm mối quan hệ giữa “văn hóa” và “tự nhiên”, “văn minh” và “hoang dã”. Họ nhận thấy một thực tế hiển nhiên rằng, xã hội ngày càng phát triển và quá trình đô thị hóa ngày càng diễn ra với tốc độ cao thì sự tàn phá của con người đối với tự nhiên nhiên ngày càng khủng khiếp. Sức tác động này không chỉ đơn giản dừng lại ở việc chặt phá một cánh rừng, giết chết một dòng sông mà ở mức độ lớn hơn, có thể làm đảo lộn chu trình sinh học tự nhiên, từ đó, gây mất cân bằng và phá vỡ ổ sinh thái, đe dọa đến sự sống còn của chính con người. Những nghiên cứu của phê bình sinh thái về văn học châu Á cũng đem đến những phát hiện bất ngờ. Trong tư tưởng triết học và văn học phương Đông, người ta bắt gặp đầy rẫy các câu nói thể hiện thái độ tôn trọng tự nhiên, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên, coi con người chỉ là một phần của vũ trụ.

Bởi vậy, bên cạnh các nguồn nghiên cứu đến từ phương Tây, một số nghiên cứu về phê bình văn học sinh thái của Trung Quốc, Nhật Bản cũng bắt đầu được giới thiệu khá công phu. . Hơn nữa, văn minh nông nghiệp kéo dài ở phương Đông cũng đã phần nào khiến cho văn học viết về thiên nhiên phát triển mạnh. Nhưng thực tế không hoàn toàn diễn ra êm đẹp như thế. Có rất nhiều bằng chứng để nói về sự xâm hại của con người đến tự nhiên, thậm chí mang danh để bảo vệ tự nhiên nhưng lại cưỡng bức tự nhiên để tạo nên những công trình, khu vườn nhân tạo. Karen Thornber trong Mơ hồ sinh thái. Khủng hoảng môi trường và Văn học Đông Á đã dẫn lại lập luận của Suzuki Takehiro, Tổng Giám đốc Hiệp hội du lịch Hẻm núi Shosen tháng 8 năm 2008 để nói về hiện tượng này. Nói thế để thấy rằng, sự can thiệp của con người đến môi trường chưa bao giờ dừng lại kể cả khi con người nghĩ đến những viễn cảnh “nhân đạo” nhất trong quá trình sắp xếp lại tự nhiên bởi đó là sự sắp xếp để thu hút khách du lịch, mà ai cũng biết, phía sau nó là lợi ích kinh tế.

Có thể thấy ý nghĩa khoa học của phê bình sinh thái là hết sức rõ nét, nó được toát lên từ tư tưởng tìm kiếm sự hài hòa giữa con người với tự nhiên. Đây có thể coi là một tư tưởng thấm đầy tính nhân văn nhằm góp phần điều chỉnh mâu thuẫn trong phát triển, không vì mục tiêu phát triển mà hủy hoại môi trường sinh thái, bởi hủy hoại môi trường sinh thái chính là việc con người tự hủy hoại mình và hủy hoại mưu cầu hạnh phúc của toàn nhân loại.

Hội thảo khoa học quốc tế Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu do Viện Văn học tổ chức trong dịp này chính là nhằm nỗ lực thiết tạo một diễn đàn khoa học thực sự dân chủ, mời gọi những bàn thảo, đối thoại về phê bình sinh thái, khẳng định ý nghĩa và vị thế của nó trong khoa học nhân văn hiện đại. Hy vọng, những phân tích, diễn giải và bàn luận của các nhà khoa học Việt Nam và thế giới tại diễn đàn khoa học này sẽ góp phần làm sâu sắc hơn nền tảng triết – mỹ và những vấn đề trọng yếu nhất của phê bình sinh thái, từ đối tượng đến bản chất, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp tiếp cận, phương pháp phân tích văn bản,… Với tư cách là một diễn ngôn khoa học, phê bình sinh thái tất nhiên không thể thể đưa ra những giải pháp trực tiếp, tức thời để khắc phục những vấn nạn môi trường, nhưng trên cơ sở phân tích và truy vấn mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, nó sẽ góp phần làm thay đổi nhận thức của cộng đồng, điều chỉnh  những nhầm lẫn tại hại về môi trường sinh thái, từ đó có những ứng xử phù với tự nhiên, biết lắng nghe tiếng nói của tự nhiên vì mục tiêu phát triển bền vững. Đây cũng là lý do để chúng ta hy vọng, với sự xuất hiện của sinh thái học nhân văn, một trào lưu nhân văn mới sẽ được hình thành trên cơ sở hài hòa giữa tam vị nhất thể: con người – xã hội – tự nhiên trong ngữ cảnh văn hóa đương đại.

PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP
(VĂN NGHỆ, SỐ 50/2017)




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHÀ VĂN THÙY DƯƠNG: TRĂN TRỞ VỚI MỖI THÂN PHẬN NGƯỜI

Nếu không biết Thùy Dương sinh ra và lớn lên ở Hải Dương, sẽ đoán   chắc nàng là người Hà Nội gốc. Gọi là nàng v ì nàng không chỉ xinh đẹp, ...

BÀI ĐỌC NHIỀU