Cách đây hơn
40 năm, những năm đầu thập niên 70, trong giai đoạn đất nước dầu sôi lửa bỏng,
những tác phẩm phản chiến được phát triển rầm rộ. Một phần, trước cuộc chiến
càng ngày càng leo thang một cách cùng cực, sinh mệnh người dân như tấm bia thử
nghiệm cho những thể chế, không biết ngày nào hy vọng bình yên trở lại
quê hương. Một phần sự loạn ly làm đình
trệ tư tưởng, đời sống và văn minh
văn hóa khoa học, đem lợi ích phát triển hơn là sự tàn phá nghiệt ngã vô
ích. Thơ văn là tiếng nói của người
làm văn nghệ, được bày tỏ bằng những bức xúc, chứa đầy cảm năng đối thoại với
chiến tranh đang phủ chụp khắp xóm làng. Thật vậy, nghệ sĩ với lửa con tim đều
biểu lộ bằng những sáng tác trên hội họa, văn chương, âm nhạc,…Trịnh Công Sơn
là một hình ảnh tượng trưng về
nét phản chiến thực tiễn trong những thập niên 60-70. Chuỗi tác phẩm của Trịnh
Công Sơn đã ghi lại những dấu ấn siêu việt ảnh hưởng từ trong và ngoài nước, mà bất cứ hàng quán
nào kể cả tư gia của người thôn dã đều chất đống âm vang những ca khúc
giữa đời sống hằng ngày…
Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên
Nghệ sĩ miền Nam có một tư thức sáng tạo và bày tỏ riêng mình, tất cả những khuynh hướng sáng tác đều không quy củ trong một
phương hướng chủ đạo, rập khuôn như nhau. Chính vậy, sự đa năng được bộc phát một
cách kỳ diệu, dù trong những thời khắc đầy khói lửa, nhưng bước tiến của nghệ
thuật miền Nam lại đa dạng. Mỗi khuynh hướng lại là một sự tinh khôi bù đắp làm
phong phú cho văn chương phía Nam. Dù trong thời buổi chiến tranh, cũng rộ nở đầy
những vườn hoa khoe muôn màu sắc, đậm nét bác học không thua sút văn hóa văn
chương thế giới.
Trong môi trường
thi ca, bên cạnh thơ lửa, chất đầy ngôn ngữ bày tỏ trước thời cuộc, mà sự sống
thì còn cần chứa chan thêm một hạnh phúc tinh yêu và trong lành ở viễn cảnh
xô bồ hằng ngày. Tuổi trẻ phần đông cũng biết chọn cho thế hệ mình phần hồn, để
bộc lộ những khoảnh khắc của con tim. Nét lãng bạt vẫn là yếu tố phong lưu trong hàng trăm nét sống tư thức dấu
yêu. Sự phơi phới hồn nhiên trong tình yêu giúp bảo tồn được nét thuần
khiết chân thành trong bản năng con người. Vì vậy, nếu những thi phẩm chan đầy
nét kỳ diệu long lanh sinh khí từ trái tim yêu thương, thì được đón nhận như cơn mưa rào thấm
đất. Đầu thập niên 60, Nhất Tuấn xuất bản thi phẩm Chuyện Chúng Mình, ba thi tập
nối tiếp trong một thời gian ngắn, đã tạo cho thơ tình một sức hút dữ dội. Tập thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím của nhà thơ Kiên Giang tức khắc được độc
giả đón nhận nồng nhiệt, cho đến bây giờ thỉnh thoảng vẫn còn tái bản với
2000 đến 3000 bản. Thơ Nguyên Sa cũng là một dòng thơ tình quý phái, trí thức và lãng mạn.
Tất cả những thi nhân kể trên, đều ít nhiều kỷ niệm và có
kinh nghiệm tình trường, nên sự
chiêu niệm của độc giả chỉ hướng về nét sáng tạo tích cực trong văn chương.
Ngôn ngữ tích lũy trong thi phẩm đều nhiều ẩn dụ gần như giả định, dù rằng thi
hóa một cách tuyệt vời. Năm 1969, lúc nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên xuất bản tự lực
với những tập thơ còn mang nặng nét học trò, tôi và Lưu Nhữ Thụy nhiều phen bay về Biên Hòa tìm
thăm, để trả lễ những dịp Nhiên về Sài Gòn thăm tôi. Sự bộc phát hình như là một định mệnh, không thể ngờ trước được,
khi tập Thiên Tai ra đời năm 1970 lúc Nguyễn Tất Nhiên vừa 18 tuổi, bỗng nhiên
tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên bùng vỡ một cách ngoạn mục. Nhac sĩ Phạm Duy bằng sự
lão luyện tài hoa cùng cực, đã làm say mê những dòng thơ tình đầy ngây thơ, ngộ nghĩnh, ông đem hết
tâm huyết phổ nhạc cho nhà thơ nhiều
bài, và thành công một cách kỳ diệu, đặc thù. Thời đó, nhạc Trịnh Công Sơn chiếm
lĩnh hầu hết thị trường, đi đâu cũng chất đầy ngôn ngữ Trịnh Công Sơn, làm
quánh đặc cả không gian bão táp giữa lòng người điên đảo. Thì sự thanh thoát tươi trẻ của hơn mươi bài nhạc phổ thơ Nguyễn
Tất Nhiên, được quảng bá rộng rãi không thua kém, bằng cách giới thiệu
xen kẽ thay thế dòng nhạc Trịnh Công Sơn, một dòng nhạc cô đọng âm hưởng monotone bấy lâu vưởng vất quanh
đời sống…Sự giải tỏa uẩn ức của cuộc sống, bằng sự huyền diệu thanh khiết và
ngây thơ cực điểm của dòng thơ Nguyễn Tất Nhiên, và âm thanh phù thủy
Phạm Duy, thì không gian như
trôi chảy giữa bốn bề âm vọng tình yêu, mà những ví von so sánh lạ lùng,
ngây dại trong ngôn ngữ chứa đầy biểu tượng sáng hóa: người từ trăm năm/về
ngang sông rộng/ ta ngoắc mòn tay…, hoặc nào hay đời cạn vì người từ trăm năm/ về khơi tình động/ ta chạy
vòng vòng/ ta chạy mòn chân.(Khúc Buồn Tình). Thơ Nguyễn Tất Nhiên có không khí bừng nở đầy trí tuệ liên tưởng tự nhiên,
đưa đẩy sự phá cách của tưởng tượng, mà tha nhân không thể dõi bước kịp ý tưởng của dòng thơ vừa băng mình chưa hết lộ trình thơ mộng, bỗng nhiên đóng khung ở một lý luận
ví von như những giải đáp lạ thường
ngộ nghĩnh: đời chia muôn nhánh khổ/ anh tận gốc gian nan/ cửa chùa tuy rộng mở/
tà đạo khó nương thân/ anh đành xưng quỷ sứ/ lãnh đủ ngọn dao trần/ qua
giáo đường kiếm Chúa/ xin được làm chiên ngoan/Chúa cười run thánh giá/ bảo: đầu ngươi có sừng! (Đám
Đông).
Ngoại trừ những
năm 60-70, với một khí thế hực lửa của những biến động thời cuộc, sự say mê nhạc
Trịnh làm bừng cháy ý thức phản kháng một cách quy mô. Thì ta không
ngạc nhiên, để hiểu rằng sự hòa đồng nhiều lúc cũng xu hướng, mà lịch sử còn phải
xâm soi định vị cả một khoảng thời gian sau, mới khẳng định được đúng sai trong
quá trình vừa trôi qua. Ảnh hưởng của
nhạc Trịnh đã bước vào tâm thức
của tầng lớp thanh niên, giục giã cái nhìn nhân chứng, sáng hóa hòa quyện
giữa thi ca và âm nhạc, nhưng không
biết có tác động được để vượt thời gian, đó là điều nan giải! Thanh lịch của
thi ca cũng như những bộ môn nghệ thuật khác, là sự tinh túy, tạo lập chân tướng
bằng tất cả phương pháp sáng tạo tùy tài năng và chân tâm của nghệ sĩ. Bởi cái
giả không là thật, mà cái thật không được là giả, người ta thường khoác lên vai
nghệ sĩ bằng y phục lòe loẹt, còn trái tim thì treo trên cành cây trước gió. Chính vậy, sáng tác có thể dùng hết
lửa để thai sinh, nhưng cũng có lúc lửa cũng hủy diệt sáng tác. Cái tâm không của
nghệ sĩ thật cần thiết. Tôi cảm nhận thơ Nguyễn Tất Nhiên có những ý
hướng vô ngã, chỉ cần đạt đến
một điều là hóa hiện bản ngã, bằng những hình tượng lập dựng để dánh dấu cho một ý niệm bừng rõ nét tình yêu.
Chính vậy, nhiều lúc tôi so sánh giũa hai ý thức sáng tác thơ tình của Nguyễn Tất Nhiên và Trịnh Bửu
Hoài, một đàng chân thật xem tình yêu như một thánh tượng, lãng đãng giữa không gian đầy hoa cỏ, gió và mây.
Một đàng xé nát vật thể, kể cả bản thân để phát minh cho thơ một sự khắc nhập,
hoá hiện lại cùng cực bản thể tình yêu và tình người. Nhiều lúc, có người đọc thơ Nguyễn Tất Nhiên,
những ví dụ ngây thơ, phù thủy làm đánh động sự phân tâm, bởi những ngôn ngữ
tân lập cho hình ảnh lạ lùng Thơ. Giống như một hình ảnh tân lập thật bình dân của Bùi Chí Vinh,
khiến thơ Vinh có một nét ngông linh
động và hoạt bát, mà có lúc tôi đùa với Vinh, như hai mặt đồng tiền, mặt phải
là Bùi Giáng, mặt trái là Bùi Chí Vinh. Còn thơ Nguyễn Tất Nhiên hẳn nhiên có nét sáng tạo thật
lạ, cung cách so sánh làm câu thơ bừng lên một nét kỳ diệu, nhưng thật đau
thương. Khác với cung cách hoa dạng trong thơ tình Nguyên Sa, với cuộc đời
và trái tim, Nguyễn Tất Nhiên đã xé nát hết tư tưởng và bản thân, để tung rải cạn láng chân khí đem đối chiếu tình
yêu so sánh những dị thường: dĩ vãng
là địa ngục/ giam hãm đời muôn năm/ tôi-người yêu dĩ vãng/ nên sống gần Satan/
ngày kia nghe lời quỷ/ giáng thế thêm một lần/ trong kiếp người linh mục/ xao gầy cơn điên trăng……………… vì
tôi là linh mục/ giảng lời tình nhân gian/ nên không có thánh kinh/ nên không
có bổn đạo/ nên không có giáo đường/( một tín đồ duy nhất/ vừa thiêu hủy lầu
chuông!) (Linh Mục).
Sự hóa thân cho chính nhà thơ đã vỗ về cho thơ xuất hiện trong một lớp áo biến đổi bản ngã,
sự nhị trùng thật ra chỉ là chiếc bóng của một hiện thân duy nhất. Mà chính tác
giả độc thoại trong sự phân vai giữa bản thân cô độc, lạnh lẽo ở một không gian
tưởng tượng trù dập tận cùng cái si mê ngây dại, bởi ru ta suốt cuộc đời/ (cuộc
đời tên vô đạo/ vết thương hành liệt tim). (Ma Soeur)…
Tài hoa một cách kỳ diệu trên sáng tác, một cách ngông
nghênh của thi sĩ, và cái nhìn tình yêu bằng đôi mắt châm chọc, đập vỡ cả não
cân xé tung cả thân xác… để so sánh bản thể si mê ngập ngụa điêu tàn. Trong khối
tình mà Nguyễn Tất Nhiên bắt phải dại khờ vì ngày ta buồn thần thánh cũng thôi
linh.
Năm 1979, buổi sáng còn vang vọng tiếng loa tuyên truyền
nhức óc của Ban Thông tin Văn xã Phường,
thì thà như giọt mưa vỡ trên
tượng đá bỗng dưng xuất hiện trước cửa Thư trang. Nguyễn Tất Nhiên với y trang
đơn giản hơn ngày xưa, sơ mi bỏ ngoài loáng thoáng theo cơn gió nhẹ, chờ tôi
trước cửa còn khép hờ. Tôi khoác vai Nhiên bước vội về một quán cà phê, cách nhà chừng 100m, với
sự chào đón im lìm và cuộc thăm viếng cũng như một cuộc giấu giếm với thế
gian. Bản thân Nguyễn Tất Nhiên thư
sinh ốm yếu cao nghệu, nhưng hiện tại càng thu liễm hơn, với vẻ mặt xanh xao giữa
mái tóc lòa xòa bất cần nhân thế. Tuy vậy Nguyễn Tất Nhiên cũng giữ lại
được nét liếng thoắng, và nụ cười nở
đầy trên môi. Nhiên bắt xe từ Biên Hòa lúc 4 giờ sáng, tâm sự ghé thăm
tôi, sau gần 4-5 năm không gặp mặt: “kỳ này em chắc ít có dịp về thăm anh”.
Nguyễn Tất Nhiên vẫn cười nói thản
nhiên, suốt buổi tri ngộ thâm tình giữa huynh đệ tin yêu. Tôi lại cứ ngỡ
Nguyễn Tất Nhiên và gia đình về khu kinh tế mới, như bao nhiêu gia đình khác được vận động di
dân lập nghiệp, nên trả lời : “Nhiên muốn về thành phố thì xin một giấy giới
thiệu, đóng mọc đỏ của một hợp tác xã nơi ở, sẽ đăng ký được giấy xe, lo gì. Tôi phục vụ bên y tế nên cũng
cấp cho nhân viên như vậy”. Nghe tôi
phân trần, Nguyễn Tất Nhiên vẫn cười cười nói nói, không bộc lộ một ý
hướng gì hơn nữa. Thời gian khoảnh khắc lại là một cách biệt
ngàn trùng, đằng đẵng đến ngày hay tin Nguyễn Tất Nhiên cư trú tại Pháp qua đài
BBC, tôi không có dịp thư tín trò chuyện với nhau. Sự cật lực sống trong
một xã hội xa lạ, Nguyễn Tất Nhiên không hội nhập được, bởi bản chất nghệ sĩ
chan đầy ý tưởng huyễn hoặc, không có thời gian thực tiễn, khiến nhà thơ chìm ngấm trong cơn lốc trầm cảm cách biệt đời thường… Thỉnh
thoảng cũng được truyền thông Nguyễn Tất Nhiên còn hoạt động văn nghệ,
xuất bản được vài tác phẩm, tôi đón nhận như tin vui chia sẻ với cố nhân…
Tất cả đều trong nghiệp chướng vô thường, không ai thoát
khỏi thành trụ hoại diệt, nhưng sao
tôi vẫn thảng thốt khi nghe đài VOA báo tin, Nguyễn Tất Nhiên vừa giã biệt
cõi đời lúc 14 giờ 30 ngày 03 tháng 08 năm 1992, bằng thuốc ngủ trong một chiếc
xe hơi Toyota cũ kỹ đầy hoa, và một bài thơ mới sáng tác có chữ ký còn giữ kỹ trong túi áo. Ngày giã từ cõi đọa
đày suốt một đời thơ, Nguyễn Tất Nhiên gởi lại nhân thân giữa thơ và hoa, tại sân Chùa Việt Nam, do Thượng Tọa
Thích Pháp Châu trụ trì, ở thành phố Garden Grove, Nam California như trở lại chính bản thể và đạo pháp: đường
không gian- đã phân ly/ đường thời gian- đã một đi không về…
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM
Viết tại Thư trang Quang Hạnh
(Mùa đông, 1992, nhuận sắc tháng 7/2011)
_____________________________________
NGUYỄN TẤT NHIÊN (1952 - 1992)
Tên thật: Nguyễn Hoàng Hải
Sinh ngày 30 tháng 5 năm 1952 tại quận Đức Tu, Biên Hòa.
Mất ngày 3 tháng 8 năm 1992 tại Califonia, Hoa Kỳ vào lúc 14 giờ 30,
Nguyễn Tất Nhiên lái xe vào thành phố Garden Grove đến chùa Việt Nam tại Nam
California, tự tử bằng thuốc ngủ. Trong giây phút tuyệt cùng, phát hiện trong
túi áo dạ phục Nguyễn Tất Nhiên còn để lại một bài thơ tình
ký tên trang trọng.
Bút hiệu đầu tiên của Nguyễn Tất Nhiên là Hoài Thi Yên Thi. Anh làm thơ từ năm 13 tuổi bằng sự lãng bạt của một hồn thơ tài hoa.
Các tác phẩm đã in:
1966, thi phẩm Nàng Thơ Trong Mắt (in chung
Đinh Thiên Phương)
1968, thi phẩm Dấu Mưa Qua Đất
1970, thi phẩm Thiên Tai
1980, Thơ Nguyễn Tất Nhiên (NXB Nam
Á, Paris, Pháp)
1984, thi phẩm Những Năm Tình Lận Đận (gồm những
nhạc tuyển, NX B Tiếng Hoài Nam, Mỹ)
1989, thi phẩm Chuông Mơ (NX B Văn Nghệ,
California, Mỹ)
1989, thi phẩm Tâm Dung (NXB Người
Việt, Mỹ)
Ngoài ra, Nguyễn Tất Nhiên còn một số nhạc phẩm
được chú ý như nhạc bản Chiều Trên Đường Hồng Thập Tự. Anh đã hoàn chỉnh thi tập
Tâm Khúc, gồm 10 bài thơ photo vài bản để lưu trữ.
Nguyễn Tất Nhiên có thơ được phổ nhạc
do các nhạc sĩ Phạm Duy, Anh Bằng, Nguyễn Đức Quang…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét