Thứ Hai, 28 tháng 5, 2018

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG: VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG

Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học là hoạt động lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất. Để có được những thành quả quả đó, văn hoá của một dân tộc cũng như của toàn thể nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã hình thành. Cũng có thể nói văn học là văn hoá lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật.
GS.TS Huỳnh Như Phương

Văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương của văn hoá. Trong tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn. Đó là bức tranh văn hoá dân gian trong thơ Hồ Xuân Hương (tục ngữ, câu đố tục giảng thanh, trò chơi…), là những vẻ đẹp của văn hoá truyền thống trong truyện ngắn và tuỳ bút Nguyễn Tuân (hoa thuỷ tiên, nghệ thuật pha trà, thư pháp…), là những tín ngưỡng, phong tục trong tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (đạo Mẫu và tín ngưỡng phồn thực, tục thờ Thần Chó đá, Thần Cây đa, Thần Thành hoàng, cách lên đồng, hát chầu văn, tục kết chạ, ma chay, cưới hỏi…). Tác phẩm văn học còn dẫn ta đi đến những nguồn mạch sâu xa của văn hoá qua việc lý giải tấn bi kịch lịch sử trong kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng hay cốt cách người nông dân được đào luyện qua những biến thiên cách mạng trong các truyện ngắn Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu.
      
Văn hoá tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở toàn bộ bầu khí quyển tinh thần bao bọc hoạt động sáng tạo của nhà văn và hoạt động tiếp nhận của bạn đọc. Bản thân nhà văn với thế giới nghệ thuật của mình là một sản phẩm văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ đợi hướng về tác phẩm, cũng được rèn luyện về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất định. Chính không gian văn hoá này chi phối cách xử lý đề tài, thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật, sử dụng thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng tác; đồng thời cũng chi phối cách phổ biến, đánh giá, thưởng thức… trong quá trình tiếp nhận. Một nền văn hoá cởi mở, bao dung mới tạo điều kiện thuận lợi cho văn học phát triển. Vì vậy, có thể nói văn học là thước đo, là “nhiệt kế” vừa lượng định, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ văn hoá cuả một xã hội trong một thời điểm lịch sử nhất định.
      
Trong tinh thần đó, nhiều nhà nghiên cứu đã căn cứ vào những dữ liệu văn học để tìm hiểu bức tranh văn hoá của một thời đại. Nói cách khác, thực tiễn văn học có thể cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy cho khoa nghiên cứu văn hoá. Chẳng hạn, thông qua nội dung tái hiện của văn xuôi Việt Nam đầu thế kỷ XX, người ta có thể chứng minh cho quá trình thâm nhập của văn hoá Tây Âu trong xã hội thời kỳ này, cũng như khoảng cách văn hoá của người thị dân so với người sĩ phu bị buộc chặt vào những tín điều Nho giáo, một bên, và với người nông dân bị giới hạn trong văn hoá nông thôn ở làng xã, một bên khác.
      
Tuy nhiên, cách nghiên cứu có phần “thực dụng” này cũng có nguy cơ làm cho nghiên cứu văn hoá nuốt chửng nghiên cứu văn học và thủ tiêu chính đối tượng toàn vẹn của văn học.
      
Nếu văn hoá chi phối hoạt động và sự phát triển của văn học, thì ngược lại, văn học cũng tác động đến văn hóa, hoặc trên toàn thể cấu trúc, hoặc thông qua những bộ phận hợp thành khác của nó. Những nhà văn tiên phong của dân tộc bao giờ cũng là những nhà văn hoá lớn. Bằng nghệ thuật ngôn từ, họ đấu tranh, phê phán những biểu hiện phản văn hoá, đồng thời khẳng định những giá trị văn hoá dân tộc, nhân bản và khai phóng. Dù là phản ứng trước những làn sóng văn hoá tiêu cực hay cổ vũ cho sự tiếp biến văn hoá, giới trí thức sáng tác tinh hoa bao giờ cũng là những người tiên phong mở ra hướng nhìn về vận hội mới của văn hoá dân tộc.

      
Giữa văn học và văn hoá có mối quan hệ hữu cơ mật thiết như vậy, nên việc tìm hiểu văn học dưới góc nhìn văn hoá là một hướng đi cần thiết và có triển vọng. Cùng với những cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học, thi pháp học…, cách tiếp cận văn học bằng văn hoá học giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong nó. Những yếu tố văn hoá liên quan đến thiên nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… có thể được vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý giải tâm lý sáng tác, thị hiếu độc giả và con đường phát triển nói chung của văn học.
        
Cách tiếp cận văn hoá học như vậy thực chất là đặt văn học trong không gian văn hoá với những đặc trưng của nó đã thâm nhập một cách tinh vi vào thế giới sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Ở những người nghệ sĩ lớn, đó không phải là sự “ăn tươi nuốt sống” mà là sự tiêu hoá và thẩm thấu vào từng hình tượng, chi tiết của tấm thảm dệt ngôn từ. Sự thẩm thấu này truyền đi cả theo hai chiều lịch đại và đồng đại. Một mặt, những giá trị từ nguồn  văn hoá truyền thống rì rầm chảy trong mạch ngầm của nó và thấm vào thế giới hình tượng và ngôn từ của tác phẩm mà đôi khi chủ thể sáng tạo không ý thức một cách tự giác. Mặt khác, những giá trị văn hoá mới hình thành vào lúc đương thời không thôi cám dỗ, kêu gọi, thách thức, đòi hỏi nhà văn phải trả lời, trực tiếp hay gián tiếp, bằng ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm của mình. Đối với những tài năng bậc thầy, cả hai chiều thẩm thấu ấy hoà trộn một cách nhuần nhuyễn đến mức khó mà tách bạch rõ ràng.
      
Văn hoá không bao giờ là một hiện tượng thuần nhất. Sự đan xen văn hoá có khi dẫn đến sự pha tạp, trộn lẫn, nhưng cũng có thể dẫn đến sự kết tinh, chưng cất nên những giá trị mới. Về mặt thời gian, khi cái cũ chưa bàn giao cho cái mới, văn học có thể là nơi hội tụ của những tìm tòi cho sự chuẩn bị chuyển tiếp thời đại. Còn về mặt không gian, khi một địa bàn trở thành ngả ba đường của sự giao lưu văn hoá, thì văn học có thể là nơi hoà giải của những xung đột tinh thần, nhằm tìm một tiếng nói cho sự chung sống giữa các nhóm người.
        
Ở xa, văn học thừa hưởng và hấp thụ những yếu tố của một không gian văn hoá rộng: văn hoá phương Đông, văn hoá dân tộc. Ở gần, văn học thừa hưởng và hấp thụ những yếu tố của một không gian văn hoá hẹp: văn hoá tộc người, văn hoá vùng. Những vùng văn hoá giao nhau sẽ tạo ra những nét chung trong văn học của từng vùng, đồng thời nó vẫn giữ lại những nét riêng làm căn cước giúp ta nhận diện bộ mặt của từng vùng văn hoá, từ đó phân biệt “lãnh thổ” trên bản đồ văn học. Công trình khảo cứu Hồ sơ Lục châu học của Nguyễn Văn Trung là một nỗ lực đáng trân trọng nhằm khảo sát, phân tích và đi đến khái quát về đặc điểm và sự phát triển của văn học Nam bộ trong bối cảnh văn hoá-lịch sử nước ta đầu thế kỷ XX. Thiên nhiên, địa lý, phong tục, tập quán, lề thói sinh hoạt ở vùng đất mới là cái nôi văn hoá hình thành nên tính cách con người và tính cách văn chương ở đây, thể hiện qua tâm lý, hành động và ngôn ngữ.
      
Trong một phối cảnh văn hoá như vậy, chúng ta sẽ thấy sự nối tiếp và gần gũi giữa Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Phi Vân ở nửa cuối thế kỷ XX với Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Bửu Mộc, Nguyễn Chánh Sắt… ở nửa đầu thế kỷ đó. Và mặc dù không thiếu những nét chung với những nhà văn cùng cộng đồng vận mệnh trong thế kỷ đầy biến động này, ngay trong đề tài về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác của họ cũng có một khoảng cách nhất định với sáng tác của Võ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến… ở miền Trung và Trần Tiêu, Bùi Hiển, Nguyễn Đình Lạp, Mạnh Phú Tư… ở miền Bắc.
        
Nằm trong cấu trúc văn hoá, đạo đức là những quy luật tinh thần hướng con người vươn đến điều Thiện, bao gồm những nguyên tắc ứng xử, những chuẩn mực và quy phạm trong đời sống xã hội. Nói đến quan hệ giữa văn học và đạo đức chính là nói đến quan hệ giữa cái đẹp và cái Thiện. Mỹ học truyền thống phương Đông cũng như phương Tây luôn nhấn mạnh sự thống nhất của hai phạm trù này và khẳng định văn học góp phần củng cố bầu không khí đạo đức của xã hội, trong đó tình người, lương tâm, bổn phận, sự trung thực, lòng nhân ái, lẽ công bằng… được đề cao. Ngược lại, khi xã hội vững chãi về phong hoá, đạo đức, thì văn học sẽ tiếp nhận nguồn động lực để nói lên sự thật về cuộc đời và về lòng người.
      
I. Kant quan niệm ý thức đạo đức là quy luật của bổn phận. Có bổn phận được thôi thúc do sức mạnh và áp lực của dư luận từ bên ngoài; có bổn phận được thôi thúc do ý thức của chính lương tâm từ bên trong. Từ đó, Kant phân biệt hai loại hành động là hành động thích nghi theo bổn phận và hành động vì bổn phận. Ông kêu gọi: “Hãy hành động sao cho nhân tính trong bản thân mình cũng như nơi người khác luôn luôn được xem là cứu cánh và không bao giờ bị sử dụng như là phương tiện” (Fondements de la métaphysique des moeurs, Delagrave, Paris, 1971, p. 150).
      
Văn học gắn liền với ý thức đạo đức theo nghĩa thứ hai. Đó là tiếng nói của bổn phận và lương tâm ngay cả khi không có áp lực của xã hội và dư luận. Văn học khơi dậy sự ăn năn, cắn rứt của lương tâm con người về những tội lỗi mà có thể không một toà án nào xử phạt được. Đó là sự sám hối, xưng tội của con người với chính bản thân mình: con người tự kết án, tự biện hộ, tự phán quyết và tự hoà giải với lương tâm mình. Có thể nói, ở nơi mà luật pháp, dư luận xã hội không can thiệp được, thì văn học có khả năng khơi dậy và tỉnh thức lương tri của con người.
      
Đạo đức là một thực thể luôn vận động và thay đổi theo sự tiến hoá của xã hội chứ không mang một khuôn khổ bất di bất dịch. Nói đúng hơn, trong đạo đức có phần căn cốt, bất biến; lại có phần biến đổi, thích nghi theo từng thời đại. Chẳng hạn, ở thời đại nào con người chân chính cũng coi trọng nghĩa vụ và danh dự; nhưng quan niệm về nghĩa vụ và danh dự thời nay không thể giống với quan niệm thời Racine, Corneille… Cũng vậy, ở thời đại nào tình mẫu tử cũng thiêng liêng, sâu nặng; nhưng mỗi thời lại có cách đối xử với người phụ nữ khác nhau, và do vậy nhìn nhận vấn đề nữ quyền một cách khác nhau. Văn học tiên phong đấu tranh cho nữ quyền chính là góp phần làm chuyển biến đạo đức theo hướng tiến bộ.
      
Trong xã hội, tình trạng đạo đức suy đồi có thể dẫn đến một loại văn học suy đồi nào đó; nhưng văn học chân chính luôn có ý thức phản kháng lại sự suy đồi. Vì vậy, văn học là lương tri của xã hội ngay cả trong tình huống bất lợi nhất. Văn học kiên trì bảo vệ những giá trị đạo đức vĩnh cửu hay đấu tranh với những lề thói đạo đức cổ hủ không phải bằng những lời rao giảng thống thiết mà bằng sự trải nghiệm của nhà văn và nhân vật của mình. Tiếp xúc với sự trải nghiệm đó, bạn đọc sẽ tự rút ra cho mình những bài học về cách ứng xử đạo đức mà họ tin là phù hợp với phẩm giá con người. Nhà văn cần tin rằng con người tự mang phẩm hạnh bên trong mình. Văn học không dạy dỗ, mà là nâng đỡ, “hộ sản” (maieutique), như phương pháp của Socrate, cho những phẩm hạnh đó có điều kiện thuận lợi để xuất hiện.
       
Có liên quan đến cả văn học và đạo đức, giáo dục là hoạt động nền tảng của văn hoá, đáp ứng nhu cầu cung cấp nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và nâng cao dân trí, hướng đến mục tiêu đào tạo những con người có nhân cách và năng lực nghề nghiệp. Một nền giáo dục toàn diện bao gồm giáo dục tri thức, giáo dục đạo đức, giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ. Văn học có vai trò quan trọng trong giáo dục đạo đức và giáo dục thẩm mỹ, là con đường đưa con người vươn đến điều Thiện và cái đẹp; đồng thời cũng góp phần vào hai lĩnh vực giáo dục kia, khi nó giúp con người nhận chân sự thật và vững vàng về mặt tâm lý.
        
Từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, không có một nền giáo dục chân chính nào xem nhẹ văn học. Văn học giữ một vị trí then chốt trong hệ thống các môn khoa học nhân văn ở nhà trường tiểu học, trung học và đại học. Trên những chặng đường đời người ta có thể quên đi những định lý toán học, định luật vật lý hay công thức hoá học; nhưng người ta sẽ nhớ mãi những bài văn hay được học từ thời thơ ấu: nhớ ông đại tướng Carnot về trường cũ thăm thầy, nhớ cậu bé đeo cặp sách ngang qua vườn Luxembourg một sáng mùa thu, nhớ người lãng du khắp năm châu bốn biển nhưng vẫn thấy quê hương mình đẹp nhất… Văn học trong nhà trường là sợi dây kết nối những tâm hồn như đã được thể hiện chân thành trong truyện ngắn Tình nghĩa giáo khoa thư của Sơn Nam.
        
Một xã hội khủng hoảng về lý tưởng sẽ dẫn đến khủng hoảng về giáo dục; mà một nền giáo dục khủng hoảng thường biểu hiện rõ nhất ở việc khủng hoảng dạy và học môn văn. Vì vậy, những nhà giáo dục có trách nhiệm luôn quan tâm đến việc cải tiến nội dung, chương trình, sách giáo khoa văn học và cả phương pháp dạy văn. Dạy văn ở đại học là dạy nghề, là truyền đạt một khoa học, cần sự phân tích nghiêm ngặt và lý giải hệ thống; còn dạy văn ở nhà trường phổ thông là dạy người, là truyền đạt tình yêu cái đẹp, là giáo dục tình cảm. Dạy Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ở trung học không phải là làm một bài thuyết giảng vô hồn về những điển cố, mà phải làm cho học sinh cảm được thần thái của một bài văn đọc giữa khói hương để hiệp thông với linh hồn những người đã hy sinh vì nghĩa cả. Đó là một nghệ thuật.
       
Môn văn học cần được đầu tư nhiều hơn nữa trong hệ thống giáo dục quốc dân: xây dựng một đội ngũ viết sách giáo khoa có tài năng và tâm huyết, tuyển chọn được những áng văn ưu tú để trao truyền cho thế hệ trẻ, đào tạo một đội ngũ thầy cô giáo có năng lực và yêu nghề. Chỉ có như vậy thì tình yêu dành cho văn học, và qua đó tình yêu cái đẹp mới được nuôi dưỡng và không ngừng nâng cao.
       
Văn học là một kho tàng bao la, ngày mỗi ngày sinh sôi nẩy nở. Văn học trong nhà trường là phần tinh hoa được chắt lọc, gồm những giá trị đã được thời gian thử thách, phù hợp với thiên chức của giáo dục. Đó là vốn liếng căn bản để con người làm hành trang tiếp tục khám phá, cảm nhận, chinh phục kiến thức và vẻ đẹp của văn học ở ngoài nhà trường. Giáo dục cần chuẩn bị cho tuổi trẻ một tâm thế nhạy bén, tự tin và tự chủ khi tiếp xúc với những sản phẩm của thị trường văn học phức tạp ở bên ngoài, nhiều khi vàng thau lẫn lộn, để nhận ra đâu là giá trị đích thực.
       
Sức hấp dẫn của một bộ sách giáo khoa văn học bậc phổ thông trước hết là ở những tác phẩm được chọn lựa để giảng dạy, sau đó mới là ở phần phân tích, bình giảng những tác phẩm đó. Cấu tạo chương trình với những tác phẩm kém chất lượng thì dù soạn giả có là các chuyên gia bậc thầy, việc thu hút học sinh yêu thích môn văn cũng là vô phương. Cho nên thiết kế được một chương trình đào tạo môn văn hợp lý, có tính sư phạm là đã bảo đảm thành công một nửa cho việc biên soạn sách giáo khoa, đặt tiền đề quan trọng cho cải tiến việc giảng dạy môn học này. Rất tiếc, hiện nay, người ta tập trung công sức và tiền của vào việc tổ chức biên soạn sách giáo khoa văn học mà không đầu tư thích đáng cho việc biên soạn một chương trình phù hợp và nhất quán.
       
Theo thiển ý của chúng tôi, trong chương trình đó, chiếm tỉ lệ áp đảo phải là những tác phẩm có giá trị bền vững, lâu dài, trong đó những tác phẩm cổ điển phải giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Chương trình, cách dạy học, cách ra đề thi hiện nay, tuy không quên lãng văn học cổ điển, nhưng vẫn ưu tiên cho văn học hiện đại, với không ít tác phẩm chưa kinh qua thử thách của thời gian, vô hình trung góp phần làm xóa nhoà ý thức về văn hoá truyền thống nơi học sinh. Chúng tôi cũng không tán thành việc đưa các bài văn “nhật dụng” vào chương trình ngữ văn, như ta thấy trong sách giáo khoa được biên soạn gần đây. Đành rằng đọc những bài văn như vậy cũng là cần thiết, nhưng trong khi chương trình luôn bị thầy và trò phản ánh là quá tải, thì người làm chương trình phải cân nhắc để chọn lựa giữa văn học và cận văn học, giữa văn học tinh hoa và văn học thực dụng. Đưa vào chương trình một bài báo chưa ráo mực của một quan chức nào đó, điều đó cho thấy tính chất xu thời của của người soạn sách, sẽ dẫn đến hậu quả tai hại là cắt đứt sợi dây truyền thông giữa các thế hệ cùng thụ hưởng bộ sách giáo khoa đó.
       
Đặc điểm và chất lượng của nền giáo dục có thể được phản ánh qua đặc điểm và tài năng của những nhà văn thụ hưởng nền giáo dục ấy. Một nền giáo dục què quặt, phiến diện tất nhiên không thể sản sinh ra những nhà văn ưu tú. Giáo dục cũng phát triển thuận chiều với văn học khi nó góp phần hình thành một công chúng có thị hiếu thẩm mỹ cao, không loá mắt choáng ngợp trước những sản phẩm văn học tầm thường, hào nhoáng. Công chúng đó có khả năng tiếp nhận những tác phẩm văn học giàu hàm lượng trí tuệ, sẵn sàng ủng hộ, biểu dương hay ít ra, biết chờ đợi và lắng nghe những tìm tòi thể nghiệm trong văn học.
       
Văn học và giáo dục, như vậy, cùng đồng hành trong việc xây dựng một nền văn hoá đậm đà tinh thần dân tộc và sâu sắc ý nghĩa nhân văn. Sự quan tâm đến lĩnh vực này sẽ làm lợi cho lĩnh vực kia và có tác dụng tích cực đến nhiệm vụ xây dựng văn hoá và con người.
      
Cùng chia sẻ những giá trị đạo đức chung, nhưng mỗi dân tộc, mỗi tộc người, thậm chí mỗi vùng đất có thể có những phong tục, tập quán riêng. Tôn trọng bản sắc văn hoá cũng là tôn trọng những phong tục, tập quán đó và không lấy phong tục nơi này làm chuẩn mực đánh giá phong tục nơi khác.
      
Ở Việt Nam đã hình thành cả một dòng văn xuôi phong tục với những tác gia am hiểu sâu sắc đời sống nông thôn: Ngô Tất Tố với Việc làng và Lều chõng, Trần Tiêu với Con trâu Chồng con, Mạnh Phú Tư với Làm lẽ và Sống nhờ, Bùi Hiển với Nằm vạ, Nguyễn Đình Lạp với Ngoại ô… Tất nhiên, tác phẩm có sức ám ảnh là nhờ trên cái nền của sự miêu tả phong tục đó, nhà văn tái hiện những tình huống bi kịch của kiếp người. Viết về phong tục, các nhà văn không chỉ làm công việc miêu tả đơn thuần, mà còn bày tỏ một thái độ trước những phong tục tập quán đã lỗi thời, không còn phù hợp với thời đại mới vì ngăn trở con người đi tìm tự do và hạnh phúc.
       
Thực tiễn tiếp nhận văn học cho thấy giữa phong tục và văn học từng diễn ra những bất hoà, xung đột. Chẳng hạn, những tác phẩm có yếu tố tính dục thường là nguyên cớ của mối bất hoà này. Ngay từ những năm 30 thế kỷ trước, chính quyền thực dân  Pháp đã ra lệnh tịch thu và tiêu hủy Hà hương phong nguyệt truyện của Lê Hoằng Mưu với lý do “vi phạm thuần phong mỹ tục”. Vào đầu những năm 70 chính quyền Sài Gòn cũng từng gây khó khăn cho việc xuất bản Ngàn cánh hạc của Y. Kawabata với lý do tương tự. Gần đây hơn, việc dịch và ấn hành Chiếc chìa khóa của J. Tanizaki, Tình yêu thời thổ tả của G. Marquez, Tình ơi là tình cuả E. Jelinek đã gây ra những cơn “sốc” văn hóa trong dư luận. Bản dịch tiếng Việt tiểu thuyết Một nỗi đau riêng của Oe Kenzaburo không ra mắt bạn đọc với nội dung trọn vẹn mà phải cắt mất một chương, là một thí dụ khác.
       
Trong cấu trúc văn hoá, phong tục là yếu tố thường xuyên biến đổi. Phong tục quy định ứng xử của con người nhưng chính con người lại làm ra phong tục. Thời gian sẽ thử thách và bảo tồn những phong tục tốt đẹp như những giá trị văn hoá, đồng thời điều chỉnh, sửa sang những phong tục tỏ ra chỉ thích hợp với một không gian văn hóa và thời gian lịch sử nhất định. Trong lĩnh vực này, công chúng nhìn vào thái độ của văn học để tham khảo cho một cách ứng xử phù hợp.
       
Tóm lại, văn học luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác nhau của văn hoá truyền thống. Có thể nói nhà văn đích thực là một nhà hoạt động văn hoá, tác phẩm văn học là một sản phẩm văn hoá và người đọc là một người thụ hưởng văn hoá. Trong thời đại ngày nay, đa số quốc gia đều là xã hội đa văn hoá, văn học vì vậy cũng đa dạng như văn hoá. Chính sách đối với văn học là một phần của chính sách văn hoá mà tiêu điểm là con người với những nhu cầu tinh thần ngày càng phát triển, và nói theo Jacques Rigaud, nó hướng đến việc tìm kiếm “một ngôn ngữ chung giữ cho chúng ta không quay trở lại thời kỳ man rợ”.

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG 
Nguồn: Tạp chí Nhà văn 



Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2018

DI LI NGƯỜI ĐẸP VIẾT ĐẸP

Nhà văn Mỹ Charles Waugh sau khi đọc cuốn sách đã nói rằng “Di Li đã bắt mạch được xã hội Việt Nam. Với một nhận thức sắc bén về những truyền thống xưa cũ, các câu chuyện của cô đã phản ánh một cách tỉ mỉ những gì đang diễn ra ở một thế giới hiện tại bằng phong cách viết điềm tĩnh, lạnh lùng, châm biếm và không kém phần hồi hộp. Nếu bạn muốn biết những gì đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay, nếu bạn muốn được cười, được khóc, được rùng mình vì sợ hãi, hoặc suy ngẫm sâu hơn về thế giới đương đại, hãy đọc Di Li.”
Nhà văn Di Li

Cách đây hơn chục năm có một cô gái rất trẻ, cao ráo, ăn mặc sang trọng, hiện đại, rất Hà Nội, mắt sáng và đẹp, trên má phơ phất chút phấn mỏng thôi mà tôn vẻ mĩ miều, tới trụ sở báo Người Hà Nội gặp thi sĩ Bế Kiến Quốc, bấy giờ là Tổng biên tập báo...

Chuyện là, Tổng biên tập Bế Kiến Quốc có đọc một truyện ngắn của tác giả Nguyễn Diệu Linh. Truyện ngắn ấy không phải xuất sắc lắm, đi được, song ông vẫn nhận ra sau cái còn mong manh ấy, một cây bút có nhiều hứa hẹn. Cũng như sự gặp gỡ ban đầu của Quốc, với nhiều cây bút khác, đang chập chững vào nghề, để tận tình giúp nhau, sau này thành danh, đôi mắt xanh Quốc đã tìm thấy gì ở cái cô Diệu Linh này? Bế Kiến Quốc nói chuyện với tác giả xong, đã khuyên cô gái xinh tươi ấy nên bỏ cái tên cúng cơm đi và lấy bút hiệu là Di Li.( Di Li là đầu của hai từ Diệu Linh).

Di Li, cái tên ấy cũng hay nhỉ! Từ đó Di Li là bút hiệu chính thức của cô gái xinh đẹp kia. Và kì lạ thay Diệu Linh thì không kì diệu, chưa linh, còn Di Li thì bắt đầu diệu kì lên hương.

Sự lên hương diệu kì được tính từ năm 2006. Khi ấy Tạp chí Văn nghệ Quân đội có tổ chức cuộc thi truyện ngắn và cô góp vào vài truyện. Thực ra, trước đó, Di Li đã viết từ rất sớm. Những truyện ngắn của cô in ở Hoa Học Trò hay ở Người Hà Nội chả cơm cháo gì, nhưng việc cô tham dự cuộc thi truyện ngắn hai năm 2005-2006, của Tạp chí Văn nghệ quân đội với tác phẩm“Cocktail” và “Ma học trò” đã làm nên một dấu ấn của một đời văn và góp thêm trên văn đàn một giọng văn lạ, hiện đại với chất ma mị của các chi tiết truyện ngắn, nhất là trong tác phẩm “Cocktail”.

Như một sự bứt rào ngoạn mục, sau đó một thời gian ngắn, Di Li trình làng cuốn “Trại Hoa Đỏ”. “Trại Hoa Đỏ” thuộc thể loại trinh thám kinh dị. Thể loại có ở văn chương Việt Nam ta từ trước cách mạng, với những: Thám tử Đoan Hùng, Lệ Hằng với chí phục thù, Người nhạn trắng, Long hình quái khách, Tráng sĩ một chân v.v…bao nhiêu năm qua đi, biến mất trong dòng chảy văn học, bấy nay dạt trôi như vô tăm tích, thậm chí có thời bị coi là thứ văn học rẻ tiền, kèm theo cụm từ “tiểu thuyết ba xu” xuất phát từ những cuốn tiểu thuyết được bán đồng giá ba xu. Ngày nay văn học thế giới đã thay đổi. Quan niệm này cũng đã lỗi thời. Ý thức được điều ấy, Di Li, người đầu tiên thuộc thế hệ hiện đại, đã làm sống dậy thể loại tiểu thuyết này với hương khí mới, tốc độ và văn phong hiện đại gắn với đời sống hiện tại. Nó khác hẳn với lối viết cũ chậm chạp, đôi khi sên sến của những cuốn tiểu thuyết trinh thám trước và sau năm 45, từng in dài kỳ trên các tờ báo ăn khách.

“Trại Hoa Đỏ” chắc về cách dựng truyện, những chi tiết li kì và số phận bi thương khiến cho cuốn sách lôi cuốn và hấp dẫn. Nó từng làm nôn nao thế giới mạng và sau đó “Trại Hoa Đỏ” được vinh danh ngay Giải Ba, trong cuộc thi tiểu thuyết 2007- 2010 do Bộ Công An phối hợp cùng Hội Nhà văn tổ chức. Thế là lại có một Di Li của tiểu thuyết, ngoài cái thương hiệu truyện ngắn cô vừa tạo nên ở Tạp chí VNQĐ.
Di Li là nhà văn chuyên nghiệp. Trong gần chục năm, cô ra hơn 20 đầu sách: truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký, hồi ký, sách chuyên ngành, truyện dịch xuôi, dịch ngược… rồi gần đây nhất là đầu năm 2012 với cuốn ký sự chân dung nhà văn: “Chuyện làng văn”.

“Chuyện làng văn” bao gồm nhiều khuôn mặt văn chương nổi tiếng và chưa nổi tiếng mà Di Li dựng tạo. Là người có mặt ở cuốn sách đó nên tôi không võ đoán nói nó hay. Song cũng như tiểu thuyết, tản văn, hồi kí hay sách dịch có tên Di Li, “Chuyện làng văn” cũng là món ăn có thể nói đắt hàng như tôm tươi. Riêng đối với văn học dịch, Di Li đã đóng góp cho văn đàn 6 cuốn tiểu thuyết. Di Li sử dụng được bốn ngoại ngữ là Anh, Pháp, Đức, Italia, từng mở cả lớp dạy tiếng Anh cho nhiều văn nghệ sĩ thành danh tới làm học trò.

Khả năng viết của Di Li rất nhanh nhậy. Có năm tôi đặt cho cô viết một truyện ngắn 2000 từ cho báo Tết, nơi mà tôi giúp đỡ việc biên tập. Lập tức cô gửi nó chỉ sau vài ngày. Và cái truyện ngắn viết về nhân vật chính là một cô bé ảo thuật ấy hết sức nhân ái, cảm động, đã đứng trên báo Tết một cách nghiêm túc. Những truyện ngắn được viết theo “đơn đặt hàng” như thế, Di Li có không ít, nó tức thời không chỉ cung cấp cho văn đàn những nhu cầu truyện hay hiện tại, mà còn chứng tỏ cô phịa rất nhanh và tài. Nói tài vì có người viết chuyện thật mà như phịa, còn chuyện cô phịa, dựng lên, cả những câu chuyện về chiến tranh mà cô chưa từng tham dự, cho dù không quá xuất sắc, có kích cỡ sức vóc lớn, song nó được bạn đọc tin cậy và tin rằng câu chuyện có thật.

Trong tất cả các mảng văn học đã từng sáng tác, tạp bút, tản văn của Di Li cũng linh hoạt và thú vị. Những bài báo cô viết trong những chuyến du ngoạn vòng quanh thế giới, các chuyến khám phá phượt hàng năm khi xuân về, bao giờ cũng không chỉ giúp độc giả nhận ra một vùng đất lạ, mà còn làm người ta hiểu thêm về văn hóa, phong tục tập quán vùng miền, sự sinh động của thế giới phẳng và nhất là đôi khi liên hệ một cách tế nhị tới chuyện trong nước, những tồn đọng có tính phê phán về văn hóa và lối sống, để người yêu mảnh đất sinh ra mình phải suy ngẫm, vui buồn.

Cuốn “Nhật kí mùa hạ” xuất bản năm 2011 cũng thể hiện cái tài viết chuyện thiểu nhi cho cả người lớn và trẻ con đọc. Những câu chuyện tuổi thơ không hề giấu diếm đã vẽ ra không chỉ một khuôn mặt nghịch ngợm, cá tính từ thuở nhỏ, mà ở đó còn đầy đủ dư vị của những năm tháng không xa, với những hạnh phúc, đau khổ trong con mắt trẻ thơ. Những câu chuyện mùa hạ trẻ trung, văn phong trong sáng, khác hoàn toàn với giọng văn lạnh lùng của Di Li ở tiểu thuyết, khác với giọng văn thông minh, sắc sảo ở những truyện ngắn.

Trên văn đàn Việt hiện đại, nếu nói về văn chương với văn hóa vùng miền, có ba người đẹp rất sắc nét rõ ràng. Phía Bắc có nàng Đỗ Bích Thúy, như Cô gái miền sơn cước Tây Bắc, mang tới cho bạn đọc nhiều điều thú vị tỉ như âm thanh chưa nghe thấy bao giờ sau những hàng rào đá. Phía Nam có nàng Nguyễn Ngọc Tư, cho thiên hạ biết cõi trời bao la trên những cánh đồng vàng bất tận và những khuất ẩn rất vụn vặt, rất đời thường của con người. Còn ở eo miền Trung - Huế với dải lụa buồn, có nàng Trần Thùy Mai, và người ta có thể tìm ở đó, trong nhiều áng văn của nàng, những cung bậc khác nhau của người miền Trung, có khi thăm thẳm buồn, kiểu kiều nữ mang sắc màu tím Huế. Người đẹp Di Li sinh ra ở Hà Nội, song cô không thuộc vào miền đất nào cả. Ngay cả trong những câu chuyện cô viết tuổi thơ ở phố Đại Cồ Việt, hay những cuốn sách li kỳ mạo hiểm, cũng ít mang dấu tích phong rêu của một Hà Nội thực là Hà Nội. Di Li là một điển hình của sự pha trộn văn chương ngôn ngữ Việt ở thời hội nhập, thời mà con gái đi năm châu bốn biển với nhiều ngoại ngữ, để thêm một vế nào đó, hay đổi vế trai ra gái, cho câu ca dao xưa: Làm trai cho đáng nên trai/ Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng... Ở đây, Di Li là một người của thế giới, chứ không phải hạn hẹp trong biên cương Việt Nam.

Năm nay Di Li chả còn xuân xanh như khi cô tới gặp thi sĩ Bế Kiến Quốc nữa. Cô đã là mẹ của một cháu gái. Gái có chồng. Hàng ngày cô tíu tít tràn ngập với hàng núi việc, nào là dạy học, nào là họp báo ra mắt sách, nào là một chương trình sự kiện do cô tổ chức. Cô thoắt ẩn, thoắt hiện khắp các nẻo miền và mất hút ở một đất nước xa xăm nào đó. Song gặp cô ở Hà Nội, dù mùa hè tới 40 độ, vẫn thấy một nàng Di Li, không bao giờ mang khẩu trang và áo chống nóng, cô phơi tay trần rám nắng, khuôn mặt tươi tắn mà nghiêm nghị, luôn nhìn thẳng mà vẫn như có ma lực cho khối chàng trai ngoái theo tưởng lầm cô với một người mẫu thời trang hay một diễn viên nào đó.

Kết thúc bài viết này, tôi muốn nhắc lại kỉ niệm gặp nữ văn sĩ đẹp lần đầu tiên tại Nhà xuất bản Hội nhà văn. Năm đó, 2006, tôi in chung trong tập truyện ngắn chọn lọc hai chương trong tiểu thuyết Quyên, trong đó có “Cocktail” của Di Li. Biết tôi là tác giả của “Quyên” qua lời giới thiệu của nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư. Cô gái xinh đẹp có khuôn mặt bấy giờ còn mộc kia reo lên: Em rất thích truyện ngắn của anh. Tôi không nói gì, bởi nhiều khi người ta chả đọc gì, cứ lấy lòng nhau mà nói vậy. Di Li thông minh, nhìn cái nheo mắt của tôi, mới nhận xét về các chi tiết của truyện. Việc ấy là viên gạch đầu tiên tôi tin Di Li. Rồi năm nào, cô với tôi đi ra phố sách Nguyễn Xí. Vài độc giả nhận ra tôi, xin chữ kí. Di Li cười rất tự nhiên bảo, em ghen tị với anh đấy, em đã in và bán tới 6, 7 đầu sách ở đây, cũng bán chạy, mà chả ai nhận ra em cả. Tôi nhìn vào đôi mắt Di Li khi ấy. Ánh mắt vui thật, chứ không phải sự bực bội hay lấy lòng. Với tôi, Di Li luôn là người bạn văn chân thành không khách sáo. Cuốn nào cô đọc, cô nói là đọc và cuốn nào đọc cũng thường rất kĩ, để đưa ra những nhận xét tinh tế và sâu sắc với những phát hiện về chi tiết và tác giả, không thua kém gì các nhà phê bình kinh viện. Tôi rất cảm ơn bạn văn Di Li khi cô là người đầu tiên trong cuộc hội thảo về tiểu thuyết Quyên đã phát hiện ra tư tưởng ở hình tượng chủ định Vô Tăm Tích của tôi và phát biểu nó dưới ánh sáng triết thuyết của nhà tâm lý học người Mỹ Abraham Maslow.

Tôi sống nhiều ở xứ người nên cũng chỉ thi thoảng mới có dịp gặp Di Li, nhưng mỗi lần gặp lại, lại nhận thêm một điều gì đó lấp lánh ở văn và đời của người bạn văn thật đẹp và chân thành này. Theo tôi Di Li là Người đẹp viết đẹp trong lứa các nhà văn đang hết sức sung sức hôm nay. Công ty sách Phương Đông cũng chuẩn bị ra mắt tập 18 truyện ngắn của Di Li được dịch sang tiếng Anh với nhan đề “The Black Diamond” (Viên kim cương đen), là cuốn sách văn học đầu tiên ở Việt Nam được phát hành bởi một công ty sách tư nhân. Nhà văn Mỹ Charles Waugh sau khi đọc cuốn sách đã nói rằng “Di Li đã bắt mạch được xã hội Việt Nam. Với một nhận thức sắc bén về những truyền thống xưa cũ, các câu chuyện của cô đã phản ánh một cách tỉ mỉ những gì đang diễn ra ở một thế giới hiện tại bằng phong cách viết điềm tĩnh, lạnh lùng, châm biếm và không kém phần hồi hộp. Nếu bạn muốn biết những gì đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay, nếu bạn muốn được cười, được khóc, được rùng mình vì sợ hãi, hoặc suy ngẫm sâu hơn về thế giới đương đại, hãy đọc Di Li.”

NGUYỄN VĂN THỌ
Nguồn: NVTPHCM

_______________

Ghi chú: Nhà văn Di Li sinh năm 1978 tại Hà Nội. Cô có hai bằng cử nhân ngôn ngữ Anh và ngôn ngữ Đức, thạc sỹ Quản lý giáo dục. Hiện là giảng viên bộ môn văn hóa Anh-Mỹ, trường Cao đẳng Thương mại & Du lịch Hà Nội, chuyên viên tư vấn quảng cáo & PR, giảng dạy bộ môn PR cho trường ĐH Hòa Bình, viết văn, viết báo và dịch thuật. Cô đã có nhiều tâp truyện ngắn bán chạy như “Tầng thứ nhất” (2007), Điệu Valse địa ngục (2007), 7 ngày trên sa mạc (2009), Tháp Babel trên đỉnh thác Ánh trăng (2010), Đôi khi tình yêu vẫn hay đi lạc đường (2010), Chiếc gương đồng (2010), tiểu thuyết “Trại Hoa Đỏ” (2009) đã được tái bản 3 lần với số lượng hơn 1 vạn bản in; tập bút ký về 29 thành phố trên thế giới “Đảo thiên đường” (2009); hồi ký “Nhật ký mùa hạ” (2011); Tản văn “Cocktail thị thành” (2011) và mới đây nhất là tập ký sự chân dung “Chuyện làng văn”(2012).




Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2018

BƯỚC GIÓ TRUYỀN KỲ: CHO LÝ LẼ CỦA SINH TỒN

Trường ca Bước gió truyền kỳ của Phan Hoàng gợi lên dáng vóc một vở kịch-múa hiện đại về hình thức biểu hiện. Toàn bộ dựa trên tính tượng trưng cao, cho dù, tất nhiên, bút pháp mô phỏng anh hùng ca cổ điển ở đây không hề là một bút pháp tượng trưng. Tính tượng trưng bao trùm đó là bởi ý niệm khởi hứng của tác phẩm này: ý niệm về “gió” như là một trung giới cho linh hồn và cũng là một “trường” mang chứa những linh hồn.
Nhà thơ Phan Hoàng

Chương Mở đầu – “Những ngọn gió vô danh” – đã kiến lập cái hình ảnh-ý niệm nền tảng đó: câu hỏi tu từ “Người ơi từ đâu theo gió bay đi/ từ đâu hồn thiêng bay về cùng gió” đã giới thiệu cái nhìn tiên quyết của tác phẩm, cái nhìn thấy “gió” mang chở những “hồn thiêng”; tiếp đến thấy “gió” trở thành tinh thần của những “hồn thiêng” ấy khi mà “ước mơ căng tràn ngực gió”; và kết chương thì “gió” ấy chính là “người” – “Người từ ngàn năm người quên tên tuổi/ bỗng gió theo về bỗng gió bay đi”.

Chương mở đầu này tựa như màn “giáo đầu” trên sân khấu. Ngắn gọn, nén dồn và gợi mở, nó đề xuất và diễn giải cái nhìn tính tượng trưng của tác phẩm. Nếu “hồn thiêng” dẫn sang liên tưởng về quá khứ và do đó về lịch sử, thì “gió” tượng trưng trực tiếp cho sức chuyển và động của cái lịch sử đó; đồng thời “gió” là “người” trong mối tương liên lịch sử, là “người” không phân biệt - “Người mới con trai người vừa con gái/ ước mơ căng tràn ngực gió thanh xuân”.

Nền tảng cảm xúc của tính tượng trưng đó được trình bày qua bốn chương thơ của Phần I, từ “Gió mở đường bay”, “Đồng dao nghịch gió” qua “Cuộc trò chuyện giữa gió và núi” đến “Gió tiếp sức ước mơ” làm cái tên chung cho Phần này. Chọn một khởi đầu là sự quay lại miền quê của ký ức tuổi thơ và tuổi trẻ - một sự quay lại miên viễn suốt mỗi cuộc đời – để nhắc tới những địa danh lừng vang như “núi Đá Bia”, “sông Ba”, biển “Vũng Rô”, dường như các chương thơ này ngầm gợi cho người đọc một tham chiếu căn bản đến bài thơ “Nhớ máu” của Trần Mai Ninh - một bài thơ mang sức ám ảnh kỳ lạ, tuyệt tác, và hầu như đã tạo ra được một thành ngữ mới cho “gió Tuy Hòa/ cái gió hiên ngang/và phóng túng.” Như vậy là “gió” quê hương đã mở ra đất nước, một hướng chân trời hợp lẽ, mà ở đây, thi sĩ Phan Hoàng lấy đó làm cái bản lề – từ “Một thời núi là trọng tài phân chia ranh giới hai nước Việt-Chiêm. Núi phóng tầm nhìn tận Sài Gòn, Cà Mau, Hà Tiên … Hoàng đế thi sĩ Lê Thánh Tông mở đường đến đây … Con đường minh quân xây bằng máu đào soi sáng đường bay chim Việt, nối ngàn xưa cho tới ngàn sau.”

Những người đọc ưa chuộng cái nhìn sử thi của trường ca hẳn dễ dàng nắm bắt cái tầm nhìn chung của tác phẩm khai mở trọn vẹn qua các chương thơ này, khi xúc cảm quê hương núi-cha-sông-mẹ, nơi “gió biển tuổi thơ dang rộng vòng tay từ mẫu”, dâng lên trở thành xúc cảm về đất nước-lịch sử; và ở đó tính tượng trưng của hình ảnh-ý niệm về “gió” được nhắc lại khẳng định không thể rõ ràng hơn: “ - Gió ơi, đất trời cao rộng bốn phương,/ bay đường nào con người bớt khổ đau?/ bay đường nào con người bớt nghèo đói?/ bay đường nào con người bớt phản trắc?/ bay đường nào con người tin được nhau?”.

Trong hai Phần tiếp theo, gồm bảy chương thơ, thêm một chương Vĩ thanh (“Những cơn vượt thoát sinh tồn vĩ đại”,) hầu như trình bày một cách giải minh tính định mệnh của các câu hỏi đó, tác phẩm này nhìn lại “đường bay” của “gió” từ “bước chân huyền thoại” mở ra “đất ngàn xưa trấn biên,” xuyên qua hành trình dằng dặc “khẩn hoang” “xuôi chín khúc sông Rồng” tới “Tây Nam mùa gió chướng” rồi tỏa khắp bốn cõi “Gió dựng thành lũy biên cương.”
Bước gió truyền kỳ, trường ca, Phan Hoàng, Nxb HNV, 2016

Các chương này liên tục dựng những bức tranh lớn theo phong cách tượng trưng của phù điêu sử thi nơi đền tháp; chẳng hạn:

“lớp lớp người người/tay kiếm tay cờ/ … lẫm liệt lao mình/ máu/ máu/ máu/ mở cõi/ máu/ máu/ máu/ giữ nước! … lớp lớp người người/ tay cuốc tay cày/ lớp lớp người người/ tay chài tay lưới/ chém cá tràng kình/ mắt xua mây xám Biển Đông …Ơi lớp lớp người người/hiên ngang đôi cánh ước mơ chim Việt/ đôi cánh Lạc Long Quân/đôi cánh Âu Cơ/ bay từ đất thiêng trung thành voi phục Phong Châu/bay từ khí thiêng oai hùng rồng lượn Thăng Long... … /Bước gió dịu dàng kiệu hoa Huyền Trân/tay gạt nước mắt tay cầm nhan sắc/không tướng không quân/xông pha bồi đắp hình hài đất nước/ Bước gió uy phong Lê Thánh Tông/lưng kiếm túithơ/rừng nghinh biển đón/phất cờ mở rộng biên cương Tổ quốc/ Bước gió Nguyễn Hoàng/bước gió Lương Văn Chánh/ bước gió Nguyễn Hữu Cảnh.../bước gió những đoàn quân vô danh/bước gió những lưu dân vô danh/bước gió những nghệ sĩ vô danh/bước gió những mỹ nữ vô danh/nhập hồn xóm làng/nhập hồn sông suối/nhập hồn núi rừng/nhập hồn biển đảo.

Có nhiều đoạn phù điêu như thế hàm ngụ sức sống tự nhiên phì nhiêu của người và đất đai Tổ quốc, chẳng hạn: “… /hừng hực ngực lửa/hừng hực đùi hương/bềnh bồng suối tóc/bồng bềnh môi trầm/bồng bềnh lạch hoa/bồng em lốc xoáy/bềnh ta bão rung/…

Những đoạn mô tả tượng trưng sinh động đó, “dâng lên những cái tên chân chất gần gũi quê mùa” và lồng lộng không khí dân dã phương Nam, là một đặc sắc ở trường ca này. Tất cả nghiêng về phía bình yên. Đồng thời giọng thơ có nhiều câu đoạn bổng trầm ngậm ngùi ưu uẩn. Và những nét giọng đầy sắc thái thầm lặng ẩn khuất đó lại tương hỗ làm tôn lên chất khẳng khái và hào khí của các mô-típ chính sử. Những nét ưu uẩn đó cũng ứng đáp với những câu hỏi mang tính định mệnh đặt ra ở cuối Phần I như đã dẫn.

Đó là thuộc về phần những nền móng dân dã của lịch sử, chẳng hạn: “Ông bà khai rạch khẩn đồi/ Sinh ra làng mạc để rồi sinh em/ Cảm thương cô bé lọ lem/ Bơi trong gió chướng giặc đêm cướp ngày” – Và ta thấy, nương theo tính tượng trưng của “gió” thì “gió chướng” cũng trở nên một ý niệm-hình ảnh tượng trưng; mà qua nhiều những câu đoạn như thế mang lại cảm nhận một lịch sử khí phách, đang sống động tranh đấu, hơn là một lịch sử bi tráng có hậu như người ta quen nói.

Cái lịch-sử-đang-là đó trải ra trong Phần III “Gió dựng thành lũy biên cương.”Chủ đề tính tượng trưng tâm linh của “gió” được tái hiện và khẳng định với “ bao linh hồn trẻ hóa gió hiên ngang/ canh giữ giấc ngủ bình yên đất mẹ” ở nơi “núi đồi biên giới,” giữa “những bóng ai lướt nhanh trong màn sương đục/bóng của hôm qua bóng của hôm nay hay bóng của mai sau?”

Có thể thấy ở đây hai lần sự nhắc lại, điệp khúc biến tấu, của các câu hỏi mang tính định mệnh con người đã đặt ra từ Phần I. Phần III này chọn câu đề từ là “Khi lịch sử gồng mình trước những cơn bão lớn/mọi con đường đất nước đều thẳng hướng biên cương”. Và, bên những mô-típ chính sử truyền thống chống ngoại xâm quen thuộc, sức bật của các chương thơ này nằm vào những câu đoạn như: “Có những cỏ cây bị đánh cắp xứ người cất lời trách gió/ có những hồn thiêng mất quê đớn đau phẫn uất mắt đêm/ có những ngọn đồi máu xương vô tình bụi mờ cát phủ”… “Những đạo quân chưa bao giờ rời mắt khỏi cõi bờ/chưa bao giờ rời mắt khỏi biển đảo/chưa bao giờ rời mắt khỏi lũ sói đói di truyền…” Thì sự lặp lại các câu hỏi định mệnh ấy là đây: “Dòng máu Lạc Hồng như tùng bách non cao/ phong ba đảo xa/ trúc mai khu vườn trầm tư minh triết/ nếu tìm được con đường ánh sáng khác/ tiết kiệm sông máu núi xương đại dương nước mắt/ tiết kiệm thời gian lạc hậu đói nghèo/ …”

Câu trả lời mà chương thơ này đề xuất cũng bắt đầu bằng chữ “Nếu,” như một giấc mơ lộng gió: “Nếu tìm được đường bay vàng hội nhập bình yên/ rộng mở chân trời nhân văn giống nòi Lạc Việt/ … /mạnh mẽ như ngọn gió thiêng dựng thành lũy biên cương.

Bản trường ca hẳn đã có thể khép lại với một cái kết trọn về hình thức như vậy. Nhưng có lẽ về thực chất nó không thể kết trọn. Cho nên tác giả khai triển sự tái hiện hồi kết đó vào chương Vĩ thanh – một lần nữa nối quá khứ vào hiện tại cho thỏa đáng tính liên tục của “gió”: “Đất nước đi bằng mọi con đường/ dân tộc lớn lên từ bao thảm kịch/ mỗi đời người một cánh buồm/ một chuyến tàu lênh đênh/ vượt thoát những cơn đại hồng thủy lập trình/ … / ta bay khắp Tổ quốc gánh gồng đau thương như đời mẹ tảo tần/ … /đớn đau kềnh càng vô tình danh lợi/ ta vẫn phải tin những bông hoa lặng lẽ tỏa hương sót lại/ và những trái tim âm thầm nhịp đập về phía minh triết chồi lộc sinh sôi.”

Chương Vĩ thanh quả đã làm cho cái kết trường ca này trở nên thỏa đáng: với lời “Cám ơn người mở đường/ hóa thân bước gió truyền kỳ”, câu chuyện tượng trưng này được nhìn như những “cơn vượt thoát sinh tồn vĩ đại dòng giống rồng tiên”. Đó là cái nhìn phù hợp với cảm thức đương thời đòi hỏi vượt và thoát những tình thế khó khăn thời đương đại. Ở đây luôn thường trực một lòng tin dựa chắc trên truyền thống dân tộc, một truyền thống của “dòng hào khí đánh đổi tinh hoa lớp lớp người người/ vẫy vùng thiên tai/ hiên ngang chiến trận” – mô-típ xuyên suốt từ đầu đến cuối bản trường ca, tượng trưng cho lý lẽ sinh tồn của một xứ sở đất nước.

Hà Nội, đầu xuân 2017
NGUYỄN CHÍ HOAN
Nguồn: Văn Nghệ



Thứ Tư, 23 tháng 5, 2018

KỂ CHUYỆN TÌNH NHÀ THƠ TRIẾT GIA PHẠM CÔNG THIỆN

Nhà thơ Phạm Công Thiện

[Đọc sách "Chuyện  một người đàn bà năm con" của Lê Khắc Thanh Hoài].

Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc. Người viết: anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác  viết:  anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa học Nhân văn, Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai? Dạy Triết học tại một Đại học Pháp mà không cần một văn bằng nào?

Đâu là sự thật, đâu là huyền thoại?

Được chị Lê Khắc Thanh Hoài tặng cho quyển tiểu thuyết đầu tiên của chị: Chuyện một người đàn bà năm con,  tôi đọc say mê, với lối văn giản dị trong sáng tôi đọc một mạch, tôi không ngờ chị viết hay và hấp dẫn như thế về cuộc đời khổ đau gian truân của chị với một thi nhân, triết gia mà thời niên thiếu tôi đã từng say mê - tác giả Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, Phạm Công Thiện.

Sách trang bìa hình tháp Eiffel  Paris, nơi xảy ra câu chuyện và bức chân dung chị Lê Khắc Thanh Hoài  ký tên Phạm Công Thiện vẽ, ngày anh tỏ tình cùng chị, chị không dấu tên người bạn đời. Người đàn bà có năm con cùng triết gia, nhà thơ Phạm Công Thiện (1941-2011) kể lại cuộc đời mình dẫn nhập bằng cuộc đối thoại với cháu ngoại, mừng sinh nhật bà, trao phong bì: một bài thơ bằng tiếng Pháp và  lì xì:  10 Euro cho bà, vì thấy bà ngoại nghèo quá thật là dễ thương, ngộ nghĩnh và cảm động. Từ đó chị kể lại cuộc đời mình qua 13 năm sống chung. Thời gian mà anh sang Pháp năm 1970, từ bỏ áo nhà tu Thích Nguyên Tánh và  sau năm 1985 anh sang Mỹ cư ngụ tại Los Angeles và qua đời tại Houston.

Tuổi học sinh Trung học, tôi say mê khi đọc Phạm Công Thiện, tôi biết về thơ Appolinaire, Rimbaud, Pierre Emmanuel… về các triết gia mới Tây Phương qua anh.

Bây giờ thì tôi viết về anh qua truyện kể của chị Thanh Hoài, nhìn anh qua những vidéo các buổi nói chuyện của anh. Tôi muốn tìm hiểu cuộc đời Hiện tượng Phạm Công Thiện, một thời làm mưa làm gió tại miền Nam những năm 1966-1970. Và dư âm những mưa gió ấy tại Hải ngoại từ 1970 đến năm 2011. Tôi muốn hiểu Phạm Công Thiện là ai? Anh là một thiên tài thần đồng, hay một Trạng Quỳnh của một thời?. Những kiến thức anh lấy từ đâu? Nguyên do gì anh đã mê hoặc cả một thế hệ tuổi trẻ miền Nam trong thời điểm đó. Đâu là sự thật của đời anh, đâu là huyền thoại do anh và mọi người thêu dệt. Những người Phạm Công Thiện quen biết tôi đều có dịp gặp gỡ:  từ chùa Hải Đức Nha Trang, đến Paris, đến Viện Đại học Vạn Hạnh: Họa sĩ Vĩnh Ấn, nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái, nhà thơ Nhị Tay Ngàn đến Hoà thượng Minh Châu Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, Thiền sư Nhất Hạnh, chị Thanh Hoài người bạn đời từng chung sống với anh 13 năm, và có 5 con với anh.

Chị Thanh Hoài sinh năm 1950 tại Huế, con một vị bác sĩ nổi tiếng tại Huế trong Phong Trào tranh đấu Phật giáo miền Trung, năm 1963 từng bị  tù dưới chế độ Ngô Đình. Năm 1969 chị học Triết học Đông Phương tại Viện Đại học Vạn Hạnh. Năm 1970 chị lên đường sang Bruxelles du học. Gặp và kết hôn với  Phạm Công Thiện tại Paris. Chị Thanh Hoài còn là một nhạc sĩ đàn dương cầm, từng học Trường Quốc gia Âm nhạc Huế, tác giả nhiều CD, và hàng trăm nhạc phẩm.

Trước nhất  Phạm Công Thiện là một nhà thơ: tập Ngày sinh của rắn in năm 1988, có những bài thơ đẹp,  và lạ lùng:

VI: Tôi chấp chới/ đắng giọng/ giữa tháng ngày mơ mộng, nốt ruồi của hương/ hay nốt ruồi của rigvêda/ tôi mửa máu đen/ tôi mửa đêm paris/ tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng/ tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người/ cho quế hương nằm ở nhà thương điên trí nhớ/ mặt trời có thai/mặt trời có thai/ sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt.

VIII: Mười năm qua gió thổi đồi tây/ tôi long đong theo bóng chim gầy/ một sớm em về ru giấc ngủ/bông trời bay trắng cả rừng cây/ gió thổi đồi tây hay đồi đông/ hiu hắt quê hương bến cỏ hồng/trong mơ em vẫn còn bên cửa/ tôi đứng bên đồi mây trổ bông/gió thổi đồi thu qua đồi thông/mùa hạ ly hương nước ngược dòng/tôi đau trong tiếng gà xơ xác/một sớm bông hồng nở cửa đông.

Anh nổi tiếng thần đồng, 15 tuổi đã công tác viết bài cho tạp chí Bách Khoa, một tạp chí nổi tiếng giới trí thức miền Nam thời bấy giờ, anh thông thạo 5, 6 ngoại ngữ, một quyển sách anh được Nguyễn Hiến Lê giới thiệu. Nguyễn Hiến Lê là một học giả tự học viết khoảng 60 quyển sách từ sách: Tự học làm người, Rèn luyện nhân cách, đến Triết Học Trung Hoa. Một kiến thức đáng kính phục. Có lẽ Phạm Công Thiện đã học phương pháp tự học và làm việc của  học giả Nguyễn Hiến Lê. Muốn học một ngôn ngữ, học bằng cách dịch quyển sách mình ưa thích, mỗi ngày đều đặn, chỉnh tề, ngồi vào bàn viết… lúc đầu khó khăn, sau thành thói quen viết dễ dàng nhanh chóng. Tôi hiểu anh không nói ngoa, anh đã viết 20 quyển sách thời niên thiếu và đốt đi. Đó là cách tập luyện viết sách, đọc một quyển sách mình mô phỏng theo, viết một quyển tương tự, ban đầu mình chịu ảnh hưởng nhiều từ từ mình tạo ra một phong cách riêng, tiến đến một sáng tạo hoàn toàn.

Anh giỏi tiếng Pháp. Anh có tài dịch thơ lưu loát và quyến rũ. Anh đọc các triết gia Tây Phương và các Thiền sư Phật giáo và diễn tả lại gọn gàng dễ hiểu. Anh đáp ứng được nhu cầu giới trẻ đương thời đang muốn mở ra tiếp xúc với Tây Phương, nhưng không đủ vốn liếng ngôn ngữ để đọc trực tiếp bằng tiếng Pháp, tiếng Anh. Kiến thức văn chương Tây Phương từ sau cuộc tiếp xúc với Văn chương lãng mạn thời Thơ Mới với Baudelaire, Edgar Poe... các Triết gia Hiện Sinh, hiện đại như thế nào? Anh đáp ứng được một nhu cầu muốn tìm hiểu của đương thời. Thuở còn học sinh Trung học tại Phan Thiết, tôi và anh Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ, thường gặp nhau bàn về những điều Phạm Công Thiện viết. Trong không khí ngột ngạt của chiến tranh Việt Nam, thân phận thanh niên rồi sẽ đi lính, rồi sẽ chết trên chiến trường như bao bạn bè. Trong không khí thành thị miền Nam thời đó, thanh niên cần một lối thoát ra khỏi không gian tù túng, mơ ước một chân trời khác, đọc được Phạm Công Thiện hay Bùi Giáng tên tuổi các triết gia Hy Lạp, triết gia bên Tây tên tuổi nghe mù mờ, có người tóm lược giảng giải nên lấy làm thích thú. Lâu lâu lại khen chữ nghĩa, tâng bốc văn hóa Việt Nam, làm hừng chí tự ti dân tộc. Phạm Công Thiện  nổi danh trên mảnh đất trống tư tưởng đó.

Phạm Công Thiện là một người quyến rũ, có sức thôi miên người đối thoại. Chị Thanh Hoài viết tr.167:

Gặp Chàng là gặp người bằng xương bằng thịt, không phải là người trong văn chương tiểu thuyết. Chàng rất chân thật, không giả dối kệch cởm. Chàng phản ảnh đúng những gì Chàng viết. Thẳng thắn. Táo bạo. Nẩy lửa. Sức hút dữ dội. Quyến rũ lạ lùng. Người đối diện chỉ còn biết buông xuôi và… trôi theo bấp bênh cùng Chàng!

Phải rồi! Bấp bênh và… vô định! Tự dưng nàng linh cảm mãnh liệt điều đó. Đến với chàng là chấp nhận bấp bênh và vô định. Không chờ đợi, không đòi hỏi. Vô điều kiện. Là quăng bỏ quá khứ và tương lai. Là phiêu lưu không cần địa bàn định hướng. Chỉ có một chiếc kim chỉ nam là tấm lòng, là con tim, là sự thành thật. Đó mới là kho tàng vô giá”.

Thời tôi và chị Thanh Hoài đi du học, số nam sinh viên luôn luôn đông hơn nữ, tỷ lệ có thể đến 1/20. Được một cô sinh viên du học xinh đẹp mới qua là có ít nhất hàng tá chàng trai Việt chạy theo. Các gia đình thượng lưu trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ, gửi con gái đi du học với niềm hy vọng: nếu nó học không xong cũng hy vọng có được tấm chồng trí thức, bác sĩ, kỹ sư, tương lai bảo đảm. Con gái nếu không thành công, thì có con rể vinh hiển cũng được nơi nương tựa yên ổn. Chị Thanh Hoài đã từ chối bao kỹ sư, bác sĩ đến với chị để nghe tiếng gọi của trái tim yêu một thi sĩ, một triết gia, âu cũng là một sự lựa chọn cho cuộc đời gian truân của chị.

Phạm Công Thiện là ai? anh được đào tạo từ đâu? hay anh là một thiên tài, đã học từ bao nhiêu kiếp trước, nay sinh ra đã trở thành một triết gia không cần học ai?

Theo tiểu sử anh sinh ra từ một gia đình theo đạo Công Giáo, anh theo học một trường tư thục Công giáo dạy bằng tiếng Pháp, anh được cha mẹ mướn người dạy kèm học tại tư gia, nhưng năm 1963, anh ra Nha Trang quen biết với nhà thơ Quách Tấn. Quách Tấn đưa anh đi thăm viếng chùa Hải Đức, nơi đây anh tập thiền và quy y thọ giới Sa Di pháp danh Nguyên Tánh với Thầy Trí Thủ, một vị cao tăng Phật giáo.

Phạm Công Thiện không viết hồi ký nên không rõ anh có bằng Tú Tài  II hay không, nhưng giỏi sinh ngữ như anh việc thi thí sinh tự do, lấy bằng Tú Tài toàn phần không phải là chuyện khó, rất nhiều học sinh học trường Pháp, thi  thí sinh tự do lấy bằng Tú Tài  II Ban Sinh Ngữ Văn Chương trường Việt thật dễ dàng. Học sinh trường Pháp thi  môn Anh Văn, Pháp Văn kỳ thi  Tú Tài Việt được 18, 20 dễ dàng, các môn Triết Học, Sử Địa chỉ cần học một lượt cũng được trung bình là  kỳ thi qua trót lọt.Triết Học lại là môn anh Thiện ưa thích lại quen viết bằng tiếng Việt.  Để có học bổng tại Viện Đại học Yale, để đi du học  Hoa Kỳ khoảng đầu năm 1964, Phạm Công Thiện phải có bằng Tú Tài Toàn Phần hạng Ưu hay Bình.  Phạm Công Thiện xong B.A (Cử nhân) tại Yale, và chuyển sang Columbia, nơi thầy Nhất Hạnh từng học, thì anh bỏ học ra đời.

Trong quyển Hố thẳm tư tưởng, Lá Bối, Sài Gòn xuất bản 1968, trong bức thư cho Nhị Tay Ngàn, chương đầu Phạm Công Thiện viết: Thời gian tao ở Hoa Kỳ, tao đã bỏ học, vì tao thấy những trường đại học tao học, như trường đại học Yale và Columbia, chỉ toàn là những nơi sản xuất những thằng ngu xuẩn, ngay đến những giáo sư của tao chỉ là những thằng ngu xuẩn nhất đời, tao có thể dạy họ nhiều hơn là họ dạy tao. Qua Pháp tao đã sống nghèo đói thế nào, thì mày đã biết rõ rồi, những lúc tao nằm ngủ tại những vỉa hè Paris, vào những đêm đông đói lạnh, những lúc đói khổ như vậy, tao vẫn còn cảm thấy sung sướng hơn là ngồi nghe mấy thằng giáo sư trường đại học Yale hay Columbia giảng cho tao nghe về Aristote hay Hégel, và Heidegger hay Héraclite.

Bây giờ nếu có Phật Thích Ca hay Chúa Giê Su hiện ra đứng giảng trước mặt tao cũng không thèm nghe nữa. Tao là học trò của tao, và chỉ có tao là thầy của tao. Tao không muốn làm thầy ai hết và cũng không muốn ai làm thầy  của tao. Còn các văn sĩ ở Sài Gòn, đọc các bài thơ của các anh, tôi thấy ngay sự nghèo nàn của tâm hồn anh, sự quờ quạng lúng túng, sự lập đi lập lại vô ý thức hay có ý thức, trí thức 15 xu, ái quốc nhân đạo 35 xu, triết lý tôn giáo 45 xu.

Không cần phải đọc Platon, Aristote, Kant, Hégel hay Karl Marx. Không cần phải đọc Khổng Tử, Lão Tử. Không cần phải đọc Upanisads và Bhagavad Gita. Chúng ta chỉ cần đọc lại ngôn ngữ Việt Nam và nội tại tiếng Việt Nam là bổng nhiên nhìn thấy tất cả đạo lý, triết lý cao siêu nhất của nhân loại đã nằm sâu trong ba tiếng Việt đơn sơ như: Con, Cái, Chay, Cháy, Chày, Chảy, Chạy và còn bao nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà chúng ta bỏ quên một cách ngu xuẩn.”

Phạm Công Thiện, sang Pháp, anh ghi danh ở Rennes, Bretagne, ở với người anh đã sang Pháp trước nhưng rồi không thuận với anh, ông lên Paris khoảng năm 1966. Lúc này tại Paris, Thầy Nhất Hạnh lập Hội Phật Tử Việt Kiều Hải Ngoại, chi bộ Pháp do anh Võ Văn Ái làm Tổng Thư Ký, trụ sở tại Maison Alfort, ngoại ô Paris. Phạm Công Thiện thân thiết với anh Ái và cùng ở nơi này.

Năm 1966, Hòa Thượng Minh Châu đến Paris tìm người trợ giúp Viện Đại học Vạn Hạnh. Gặp Phạm Công Thiện, thầy thuyết phục anh làm lễ xuất gia, thọ giới Tỳ Kheo cho  anh, Đại Đức Thích Nguyên Tánh  và đưa anh về Viện Đại học Vạn Hạnh.

Phạm Công Thiện phụ trách Khoa Khoa học Nhân văn; sáng lập tạp chí Tư Tưởng, và soạn chương trình cho Viện Đại học Vạn Hạnh.

Niên khoá  1968-1969; Thanh Hoài học môn Triết Đông với Thầy Nguyên Tánh.

Năm 1970 Thanh Hoài lên đường đi du học tại Bruxelles. Cũng năm này Phạm Công Thiện đi dự một Hội Nghị Phật Giáo cùng Hoà Thượng Minh Châu, anh xin ở lại ghi tên làm luận án Tiến Sĩ. Tại Paris, Thanh Hoài gặp lại Phạm Công Thiện tại nhà họa sĩ Vĩnh Ấn. Thanh Hoài quyết định bỏ Bruxelles sang Pháp chung sống cùng Phạm Công Thiện. Cuộc sống phiêu lưu đầy gian nan, sống với học bổng của anh trong 4 năm.  Sau đó anh xin được một việc làm văn phòng Đại học Toulousse. Nhân có một chân phụ giảng trống anh làm đơn xin việc. Phạm Công Thiện được giáo sư hướng dẫn giới thiệu ‘Sinh viên ưu tú xuất sắc hạng nhất, bốn năm cao học đã hoàn tất‘ (tr 252). Điều này chứng tỏ Phạm Công Thiện đã xong văn bằng tốt nghiệp Ecole Pratique des Hautes Etudes (tương đương với Master) tại Sorbonne, và học xong một năm D. E. A. Diplôme Etudes Approfondies, (theo tổ chức đại học Pháp lúc đó, ngày nay đã đổi thành Master I, Master II và bỏ văn bằng Tiến sĩ  Đệ Tam cấp và Tiến sĩ Quốc Gia, chỉ còn một văn bằng Tiến sĩ  duy nhất).  Anh làm việc này giao kèo gia hạn mỗi năm, chức vụ cuối cùng là Giảng  sư (Maître de Conférence) tại Đại Học Toulousse II... Công việc tạm ổn định, chị Thanh Hoài sinh năm con, bốn cháu trai và một cô gái út, quần quật với bầy con: đưa rước đi học, ăn uống tắm rửa, bếp núp, chị còn làm việc  ráp linh kiện cho hãng máy bay Airbus, nhưng Phạm Công Thiện lại rơi vào vòng nghiện rượu, sống cuộc sống đầy bè bạn quên mất chuyện gia đình.

“Và nơi ngôi biệt thự xinh xắn đó, nơi mà đáng lý ra chỉ có hương hoa và sắc màu của một vị ngọt là hạnh phúc, thì trớ trêu thay, nơi  đây suốt bảy năm trời chỉ mang một vị đắng. Vị đắng của khổ đau. Vị chua chát của rượu… Chàng đã thỏa hiệp với con ma rượu.

Anh không thấy gì hứng thú vì cứ phải lải nhải triết lý để kiếm tiền nuôi vợ con”. “Anh chỉ là chiếc bóng đằng sau bầy con. Điều này cũng làm anh đau khổ. Lải nhải triết lý xong thì anh chỉ còn biết lè nhè”.

“Thì giờ của em dành cho con quá nhiều và em đã bỏ rơi anh... Hay là em... tránh né anh..?

Tránh né anh vì em ghê sợ mùi rượu. Vậy anh hãy ngừng uống rượu..

Đúng là lẫn quẩn không lối thoát!

Bảy năm trời trôi qua trong cái vòng lẩn quẩn không lối thoát đó, nơi cái biệt thự màu hồng đó. Nàng thì vẫn cứ xoay mòng với bầy con năm đứa. Chàng thì cố gắng làm tròn công việc dạy học, cho dù nỗi chán chường mỗi ngày một chồng chất, nhưng bọn sinh viên vẫn ào ào tới càng ngày càng đông hơn, giới trí thức trong tỉnh lần lần nghe tiếng và bạn bè lũ lượt kéo đến càng nhiều hơn. Những buổi trà dư tửu hậu lại tiếp nối nhau. Khói thuốc vẫn mịt mù lan toả. Mùi rượu vẫn nồng nặc xông lên..

Cho đến cái ngày mà giọt nước đã tràn đầy ly thì cái vòng lẩn quẩn đó tự động ngừng quay”.

Một ngày Thanh Hoài bị suyễn nặng, ho vì dị ứng phấn hoa, nhờ anh đi mua thuốc. Anh ra đường  gặp bạn bè rủ đi ăn nhậu, quên mất chuyện thuốc cứu cấp cho vợ, sáng hôm sau mới về mang một hộp trứng, hỏi thuốc, anh quên mất.

“Sáng hôm ấy, vì quá mệt, Nàng đưa toa của bác sĩ nhờ Chàng ghé tiệm thuốc mua giùm Nàng. Mười lăm phút, hai mươi phút, ba mươi phút trôi qua, Nàng ngong ngóng Chàng về đưa thuốc cho đỡ nghẹt thở. Rồi một giờ, hai giờ, ba giờ trôi qua.. vẫn không thấy bóng Chàng. Nửa ngày trôi qua. Một đêm trôi qua. Nàng vẫn ngong ngóng. Nhưng vẫn không thấy bóng chàng đâu. Một đêm đã trôi thật quá dài, quá dài tưởng như bất tận. Không ngủ được vì ho, vì nghẹt thở. Nàng đã trải nghiệm cảm giác thế nào là kề cận cái chết. Nàng không đủ sức để tức giận, vì nàng nghĩ nếu chết trong sự tức tối, chỉ tự mình hại mình, sẽ không được đầu thai tốt, lại còn rơi vào đọa xứ nữa không chừng!  Chi bằng cứ thản nhiên, chấp nhận số phận và thanh thản niệm Phật. Đây là điều cần làm trong lúc này, chẳng phải là sự tức giận!

Nàng nhắm mắt chờ thần chết rước đi. Nhưng không, không được ! Nàng sực tỉnh ! Mà kia mình đã quên mất bầy con, mình chết thì chúng sẽ ra sao đây ? Mình có thể bỏ chúng để ‘ tiêu diêu ‘ nơi phương trời nào đó được chăng ? Từ bỏ cái thân thể bệnh hoạn khổ sở thì mình cũng hết nợ với thế gian này, nhẹ nhàng thanh thản cho mình, nhưng không thể chỉ nghĩ đến mình mà quên bầy con. Không được rồi, không đúng rồi.. Không mình phải sống, phải ngồi dậy, đứng thẳng và không còn nghẹt thở. Mình phải tự bảo vệ mình, không thể buông xuôi ! Mình nhớ đã từng được dạy dỗ ‘ thân người khó được ‘, phải bảo vệ nó cơ mà ! Không sát sanh, không hại vật, nhưng khi nguy cơ đến thì cũng phải biết tự bảo vệ để không mất mạng chứ ! Có thể nào chết dễ dàng như vậy được ? Không, ta phải sống !

Khi trời vừa tờ mờ sáng thì Nàng nghe tiếng cửa mở. Chỉ cần thấy dáng bộ xiêu vẹo, ngả nghiêng của Chàng là nàng thừa hiểu tất cả. Trông Chàng còn thê thảm hơn cả Nàng nữa ! Thôi thì chẳng còn gì để hỏi, để nói, để trách nữa. Chắc chắn là không có thuốc cho Nàng rồi.

Dù gì thì Nàng cũng đã quyết định rằng Nàng phải sống, Nàng phải thở, Nàng phải đứng thẳng dậy và đi tiếp.

Nhưng đoạn đường đi tiếp của Nàng chắc chắn là sẽ không đi cùng Chàng. Không vì tức giận hay oán trách, mà chỉ vì không còn giải pháp nào khác hơn.

Thế là Nàng lặng lẽ sắp đặt cuộc ra đi của Nàng. Rồi đến ngày hôm đó, không báo trước, không nói năng. Nàng âm thầm dắt bầy con ra khỏi ngôi biệt thự màu hồng . »

 Thanh Hoài quyết định chia tay cùng anh, chị thu xếp cùng năm con ra đi. Phạm Công Thiện cũng mất việc đại học vì khế ước không được gia hạn và ghế giảng sư cũng không còn, anh được Hoà Thượng Mãn Giác mời sang dạy tại Viện Quốc Tế Phật Giáo, tai Los Angeles. Anh lại trở về cư ngụ tại chùa, tại nhà bạn bè.

Tại xã hội Pháp nuôi nấng năm con không phải là điều dễ dàng, thường mỗi gia đình chỉ dám có 2,3 con. Thanh Hoài vừa làm mẹ, vừa làm cha, khi dạy đàn dương cầm, khi làm quản gia và các công việc khác, nuôi năm con cho đến khi trưởng thành, thành người :  Cậu trai đầu , tốt nghiệp École Normal Supérieur rue d’Ulm, Tiến sĩ Vật lý , giảng dạy Vật Lý Viện Đại Học Paris  Orsay. Cậu thứ hai Tốt nghiệp Cao Đẳng Thương Mại tại Bordeaux, Giám Đốc  Thương Mại, cậu thứ ba Tốt nghiệp trường Mỹ Thuật tại San José Hoa Kỳ, Họa sĩ, cậu thứ tư  giống bố ở chỗ thích Triết Học  và cô gái út Bác sĩ Nhi Khoa. Chị có đầy đàn cháu nội, cháu ngoại.

Phạm Công Thiện qua đời năm 2011 tại Houston, các con đều sang dự đám tang cha.

« Nhờ âm nhạc, qua âm nhạc, bà luôn luôn đi sát cạnh cuộc đời, ở trong cuộc đời, thăng hoa cuộc đời, biến những nỗi buồn thành niềm vui, những chán chường thành lạc quan yêu đời, cô đơn thành cảm thông chia sẽ. »

Đứa cháu ngoại đã hỏi chị :

-«  Bà ơi ! Bà có giận ông ngoại không ?

-  Bà chẳng hề giận !

- Thực ra, con cũng thấy thương ông ngoại làm sao ấy..

Cháu bà giỏi lắm, các cậu và mẹ con cũng thế, luôn yêu thương ông ngoại, không hề ghét bỏ hay trách móc.

- Mỗi lần gặp lại ông, con chỉ muốn ôm ông hôn và không cần phải nói nhiều.. Con biết ông không hề có ý làm khổ bà, vì chính ông là người khổ trước tiên nếu phải làm khổ ai…. Ông ngoại vẫn luôn bảo tụi con phải yêu thương bà hết mực, vì nhờ bà mà mẹ con, các cậu con nên người. Có  điều.. ông vẫn nghĩ là bà còn giận ông !

- Con có nghĩ như vậy khi bà kể chuyện cho con ?

-  Không, Con nghĩ bà vẫn còn yêu ông ngoại !

 - Thực ư.. Chính bà cũng không biết ! » 

Khép lại trang sách tôi ngẫm nghĩ. Tiếc là sách bằng tiếng Việt, nếu viết bằng tiếng Pháp, các cháu nội, cháu ngoại chị Thanh Hoài đọc được sẽ nghĩ rằng : ông bà mình thiếu thông tin cho nhau. Nếu ông đi đâu, điện thoại cho bà một tiếng, hay nếu có điện thoại di động, bà gọi ông nhắn ông đem thuốc về gấp thì sẽ không có chuyện gì xảy ra. Tiếc thay oan Quan Âm Thị Kính nằm ở chổ, thời ấy chưa có dao cạo râu: Thị Kính phải vác con dao phay to tướng cắt râu cho chồng.  Bà giận ông : vì thời ấy chưa có điện thoại di động. Nếu không bà sẽ điều khiển từ xa, ông chồng triết gia lãng trí hay quên của mình.

Các cháu Việt Nam sinh ra tại Pháp xem xong vở tuồng Quan Âm Thị Kính thường tức tối và hỏi : Où est sa bouche ?. Cái miệng bà Thị Kính ở đâu ? Sao bà không nói ? Sao ông không nói ? Tiếc thay khi ông bà giận nhau các cháu chưa ra đời !

Khép lại đọc trang cuối bìa tập sách là lời Phạm Công Thiện viết khi gặp nhau lần cuối : « Ở nơi chốn hỗn loạn, ở nơi tận cùng của khổ đau và tuyệt vọng mà tiếng nhạc của em vẫn có thể vang lên những âm thanh của dịu dàng đầm thắm, bay bổng cao vút tận chân trời, từ cái điều Không Thể mà vẫn Có Thể. Hãy gọi đó là Giai Điệu Của Cái Điều Không Thể”. 

Khép lại trang sách chuyện kể một cuộc tình, hai cuộc đời không trọn vẹn cùng nhau đến cuối đời. Nhưng lời kể chuyện trong trẻo, thanh thoát khiến cho chúng ta vẫn còn nghe vang lên một dư âm  tiếng đàn dương cầm chị Thanh Hoài.

Xin giới thiệu tiểu thuyết “Chuyện một người đàn bà.. năm con » của Lê Khắc Thanh Hoài do nhà xuất bản Thời Đại xuất bản tại Hà Nội và Sài Gòn cùng đọc giả trong và ngoài nước. Qua câu chuyện một kinh nghiệm sống cuộc đời, chị đã vẽ ra một khung cảnh người Việt trên đất Pháp, nó cần thiết cho các bạn trẻ, cho phụ huynh khi con em lên đường du học. Truyện còn giúp ta hiểu hơn về Phạm Công Thiện một nhà thơ, một triết gia một thời danh tiếng  tại miền Nam Việt Nam.

Paris 23-7-2016
PHẠM TRONG CHÁNH
TẠP CHÍ VĂN HOÁ NGHỆ AN

Thứ Ba, 22 tháng 5, 2018

NHÀ THƠ, NHẠC SĨ DIỆP MINH TUYỀN: ĐỜI MÌNH LÀ MỘT KHÚC QUÂN HÀNH

Là một nhà thơ (từng giữ cương vị Ủy viên BCH Hội Nhà văn TP HCM), song trên thực tế, Diệp Minh Tuyền lại được biết đến nhiều hơn trong tư cách một nhạc sĩ - tác giả của khúc tráng ca bất hủ "Hát mãi khúc quân hành" (được hát nhiều ở các buổi liên hoan hay các dịp lễ trọng), cũng như một số ca khúc rất được khán giả trẻ ưa chuộng: "Cánh hoa lưu ly", "Không dám dâu"...
Nhà thơ Diệp Minh Tuyền (1941 - 1997)

Nếu như đứng riêng rẽ, thơ Diệp Minh Tuyền chưa hẳn đã gây được dấu ấn đặc biệt đối với người đọc, song không hiếm bài lại nổi tiếng dưới hình hài một bài hát do các nhạc sĩ có "hạng" phổ nhạc, như các bài: "Tình Bác sáng đời ta" (nhạc Lưu Hữu Phước), "Màu cờ tôi yêu" (nhạc Phạm Tuyên), "Mùa chim én bay" và "Con đường có lá me bay" (nhạc Hoàng Hiệp)... Có thể khẳng định, Diệp Minh Tuyền là một hiện tượng khá kỳ lạ của làng văn nghệ Việt Nam...

Nhà thơ, nhạc sĩ Diệp Minh Tuyền sinh ngày 18/8/1941 tạo TP Mỹ Tho, trong một gia đình trí thức yêu nước. Cha anh - cụ Diệp Tư - từng là thủ lĩnh của Thanh niên Tiền phong Mỹ Tho. Mẹ anh là giáo viên. Năm lên 9 tuổi, Diệp Minh Tuyền được mẹ đưa vào sống cùng cha tại chiến khu Đồng Tháp Mười. Tại đây, mỗi tối thứ Bảy, cậu bé lại được cùng các bạn thiếu sinh quân hát vang những bài hát bừng bừng khí thế chiến đấu như "Tiểu đoàn 307", "Chiến sĩ Việt Nam"... Lòng yêu nước, yêu âm nhạc đã hòa quyện trong tâm hồn cậu bé, trở thành niềm vui sống. Sau này, khi Diệp Minh Tuyền được cùng các bạn nhỏ biểu diễn chung với nghệ sĩ Quốc Hương, cậu như tìm thấy thần tượng đích thực của mình. Hình ảnh người nghệ sĩ đội chiếc mũ rộng vành, ôm đàn ghita, say sưa hát những bài tráng ca kháng chiến đã trở thành một trong những hình ảnh ấn tượng nhất trong ký ức một thời của nhà nhạc sĩ tương lai.

Năng khiếu âm nhạc của Diệp Minh Tuyền phát lộ khá sớm. Thời kỳ là học sinh Trường Học sinh miền Nam số 14, mặc dù mới chỉ 13, 14 tuổi, cậu đã sáng tác ca khúc đầu tay "Em bé miền Nam", rồi tiếp đó là "Chiều Hạ Long" được thầy cô và bè bạn rất ngợi khen. Mặc dù đam mê âm nhạc và dự định thi vào Trường Âm nhạc Việt Nam, song nghe theo lời khuyên nhủ của cha, năm 1961, Diệp Minh Tuyền vào học khoa Ngữ văn Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, cùng lớp với các sinh viên sau này là những nhà văn, nhà thơ thành danh như Lữ Huy Nguyên, Anh Ngọc, Mã Giang Lân... Cũng tại đây, được sự động viên, khuyến khích của người bạn cũ Ca Lê Hiến (tức nhà thơ Lê Anh Xuân, bấy giờ theo học khoa Sử), Diệp Minh Tuyền bắt đầu làm thơ. Một số bài sau đó đã được tác giả đưa vào tập "Mùa nước nổi" xuất bản năm 1972. Ra trường, Diệp Minh Tuyền được phân công về Viện Văn học, làm việc ở tổ lý luận phê bình với nhiệm vụ chính là theo dõi mảng nghiên cứu phê bình thơ.

Mặc dù một số bài viết đầu tay của Diệp Minh Tuyền ở thể loại này được dư luận ghi nhận là khá chững chạc, song điều ấy cũng không thể ngăn trở anh - chỉ 3 năm sau, đã kiên quyết xin được trở vào Nam chiến đấu. Là con của một cán bộ lão thành cách mạng, bình thường ra, Diệp Minh Tuyền đã có thể trở thành một nhà nghiên cứu với học hàm, học vị, song việc anh dứt áo ra đi đã cho thấy quyết tâm "chia lửa" với đồng bào quê hương của anh.

Người "vô tình" đưa dẫn Diệp Minh Tuyền đi đến quyết định này có lẽ là Lê Anh Xuân. Cũng tương tự như trường hợp của anh, Lê Anh Xuân là con một gia đình trí thức (cụ thân sinh là nhà giáo Ca Văn Thỉnh, người từng giữ chức Quyền Bộ trưởng Bộ Giáo dục trong chính phủ kháng chiến). Mặc dù được cử đi nghiên cứu ở nước ngoài, song Lê Anh Xuân đã chối từ để được về quê hương chiến đấu. Và anh đã hy sinh trong đợt hai của cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968. Những bài thơ do Lê Anh Xuân sáng tác như "Nhớ cơn mưa quê hương", "Trở về quê nội", "Dừa ơi" đã thêm hối thúc nỗi nhớ quê trong Diệp Minh Tuyền. Quả đúng như sau này Diệp Minh Tuyền đã viết: "Dù rằng đời ta thích hoa hồng/ Kẻ thù buộc ta ôm cây súng/ Ta yêu sao đồng quê non nước mình" và "Đời mình là một khúc quân hành/ Đời mình là bài ca chiến đấu...".

Với vóc dáng gầy gò, lại mang trong mình căn bệnh đau dạ dày, Diệp Minh Tuyền đã không quản ngại gian khổ, đạn bom, lặn lội vượt Trường Sơn vào chiến khu R, cùng anh em Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam sáng tác những tác phẩm thơ, nhạc động viên cán bộ, chiến sĩ dũng cảm chiến đấu, hy sinh, vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những đóng góp của Diệp Minh Tuyền thật thiết thực, kịp thời. Sau này, nhà văn Thanh Quế, "hàng xóm" với anh thời kỳ ở Hà Nội đã kể lại: "Cuối năm 1978, tôi gặp Diệp Minh Tuyền. Sau một chầu nhậu đã ngà ngà say, tôi hỏi: Sao lâu nay anh không viết nhạc? Mắt Diệp Minh Tuyền sáng lên: "Có chứ. Có lẽ vì cậu ở Khu 5, cậu không rõ. Vô chiến trường tớ viết ca khúc "Người giao liên Trường Sơn" và lời bài hát "Tình Bác sáng đời ta" của Lưu Hữu Phước được phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Giải phóng đấy chứ".

"Sao không thấy anh ký tên Diệp Minh?". "Tớ lấy tên là Thanh Tuyền, bậy quá, các cậu không biết hé. Giờ tớ còn đang viết nhiều nhạc...". Diệp Minh Tuyền quả là có duyên âm nhạc. Và dẫu thơ anh có hay, có bềnh bồng thế nào chăng nữa, cũng ít nhiều phải cộng thêm đôi "cánh nhạc" mới thực bay cao. Nhạc sĩ Trương Quang Lục từng cho hay: Năm 1979, hưởng ứng lời kêu gọi của tổ chức UNICEF, Ủy ban Năm Quốc tế thiếu nhi Việt Nam phát động cuộc thi sáng tác bài hát mới cho trẻ em. Cuộc thi gồm hai phần: Phần thi viết lời bài hát và phần thi phổ nhạc các bài thơ ấy. Kết thúc phần một, Ban giám khảo (do nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát làm chủ tịch) đã chọn được hai bài thơ: Đó là bài "Trái đất này của chúng em" (đã trở nên rất phổ biến sau khi được nhạc sĩ Trương Quang Lục phổ nhạc) của nhà thơ Định Hải và bài "Việt Nam, bầu trời này, mặt đất này" của nhà thơ, nhạc sĩ Diệp Minh Tuyền.

Nhạc sĩ Phạm Tuyên thì kể, trong một chuyến bay, Diệp Minh Tuyền đã đưa cho ông một bài thơ vết về Đảng. Phạm Tuyên đọc, thấy rất hợp ý mình, đã quyết định phổ nhạc bài thơ. Bình thường, với những bài thơ chặt chẽ về niêm luật, việc phổ thơ sao cho vừa giữ được nguyên văn, mà vẫn thành một bài hát hay, là rất khó. Việc phổ thơ lục bát lại càng khó. Vậy mà Phạm Tuyên đã tài tình thực hiện được điều này. Thậm chí, nghe những câu: "Suốt đời lòng dặn giữ lời/ Đường dài muôn dặm chớ rời tay nhau" được nhấn đi nhấn lại mấy lần, ta thấy giữa tác giả phần lời và tác giả phần nhạc đã có một sự đồng cảm cao độ. Diệp Minh Tuyền là người đa tài. Điều này hẳn không mấy ai là không công nhận. Song điều ngạc nhiên nhất có lẽ chính là khả năng phân thân của anh.

Như ở đầu bài viết đã nói, ngoài sáng tác nhạc, anh còn làm thơ, viết phê bình văn học. Và ngay trong mảng sáng tác nhạc, tác phẩm của anh cũng đáp ứng được tâm lý của nhiều lứa tuổi. Sẽ thật khó hình dung khi người sáng tác nên bài hát nồng nàn, hào sảng, tha thiết, mang đậm chất anh hùng ca như "Hát mãi khúc quân hành", sáng tác nên những lời thơ nghiêm trang và giàu tính khái quát như "Màu cờ tôi yêu" lại là tác giả của những vần thơ hết sức xao xuyến, trữ tình như "Mùa chim én bay" (Khi gió đồng ngát thơm/ Rợp trời chim én liệng/ Cây nảy đầy chồi xanh/ Mây trắng bay yên lành/ Em chợt đến bên anh/ Dịu dàng như cơn gió nhẹ); đậm chất "áo trắng sân trường" như "Con đường có lá me bay" và nhí nhảnh như "Không dám đâu"... Ấy là chưa kể một tình tiết mà không hẳn đã nhiều người biết: Diệp Minh Tuyền còn là tác giả bản dịch phần lời ca khúc "Triệu bông hồng", vốn là bài thơ của nhà thơ Nga Andrei Voznesensky (đã tạ thế hồi tháng 6 vừa rồi).

Ai từng đọc bản dịch này của dịch giả Thái Bá Tân sẽ thấy sự tài hoa, khoáng hoạt của Diệp Minh Tuyền đã tạo nên một bản dịch thành công, xứng với sự trân trọng, hâm mộ của bạn đọc. Xin trích một đoạn của bản dịch do Diệp Minh Tuyền thực  hiện: "Chuyện một tình yêu anh họa sĩ/ Gởi trong tranh vẽ những vui buồn/ Lòng anh thầm yêu nàng ca sĩ/ Cô gái rất yêu bông hoa hồng" và "Tặng một đại dương hoa hồng thắm/ Cho nàng ca sĩ anh yêu thầm/ Và ngôi nhà xinh anh đã bán/ Bằng dòng máu nóng trái tim mình"... Sau ngày miền Nam giải phóng, Diệp Minh Tuyền chuyển về công tác tại Hội Liên hiệp VHNT TP HCM. Tại đây, anh không chỉ được tín nhiệm bầu làm Ủy viên BCH Hội Nhà văn thành phố mà còn được bầu giữ chức Phó tổng thư ký Hội Âm nhạc thành phố, kiêm Tổng biên tập tạp chí Sóng Nhạc.

Nhà thơ, nhạc sĩ Diệp Minh Tuyền qua đời ngày 21/11/1997 tại TP HCM, sau một cơn tai biến mạch máu não. Ra đi ở tuổi 57, anh đã để lại sự tiếc thương trong lòng  bạn bè, người thân và hàng triệu khán giả, độc giả yêu thích thơ và nhạc của anh...

NGUYỄN CHÍ CƯỜNG
Nguồn: VNCA



NHÀ VĂN THÙY DƯƠNG: TRĂN TRỞ VỚI MỖI THÂN PHẬN NGƯỜI

Nếu không biết Thùy Dương sinh ra và lớn lên ở Hải Dương, sẽ đoán   chắc nàng là người Hà Nội gốc. Gọi là nàng v ì nàng không chỉ xinh đẹp, ...

BÀI ĐỌC NHIỀU