Ông được xếp
vào danh sách người thụ án
lâu nhất Việt Nam thời Pháp thuộc. Tổng cộng các bản án do tòa "áo
đỏ" của chính quyền Pháp tuyên dành cho ông gồm 79 năm tù. Trong đó có 32
năm tù "giam biệt xứ" và 34 năm "khổ sai biệt xứ" tại Côn
Lôn (tức Côn Đảo).
Đã có hàng ngàn bài báo viết về ông nhưng vẫn chưa đúc kết trọn vẹn cuộc đời ông.
Nhà văn Sơn Vương năm 1970.
Vụ cướp chấn động Sở mật thám Đông Dương
Trong hồ sơ án
tích của Pháp ghi năm 1933 Sơn Vương bị bắt lần đầu sau khi thực hiện vụ cướp
nhắm vào chuyến áp tải tiền lương từ ngân hàng về sở do René Gaillard - vệ sĩ của
viên chủ sở cao su ở Gò Vấp. Thật ra, ông cướp tổng cộng 5 vụ lớn nhưng 4 vụ kia nạn nhân
không muốn báo cò Pháp. Chỉ riêng vụ dùng súng giả đánh cướp tiền của
René Gaillard áp tải, Sở Mật thám Nam Kỳ mới truy cứu do René Gaillard quyết
tâm gỡ nhục.
Có nguồn cho rằng,
René Gaillard là chủ đồn điền sở cao su Mimot. Điều này khó chính xác vì
vào thời đó, hiếm khi đích thân chủ đồn điền đi ngân hàng nhận tiền mà thường giao cho gạc-đờ-co (garde du corps: vệ
sĩ riêng). Vả lại, nếu René Gaillard mở sở cao su ở Mimot thì đi ngân
hàng Phnôm Pênh nhận tiền gần hơn
Sài Gòn.
Thời điểm đó, vùng Tân Bình, Gò Vấp, Hóc Môn là những vườn cao su bạt ngàn của các điền chủ người
Pháp. Vì chủ trương thực dân
cướp bóc thuộc địa nên lực lượng điền chủ cao su được chính quyền Pháp tại Việt
Nam rất trọng vọng và có thế lực. Họ là đối tượng được lực lượng cảnh sát Pháp
bảo vệ an ninh tối đa. Tận dụng ưu thế đó, hầu hết các điền chủ cao su đều bỏ
tiền thuê riêng cho mình một lực lượng gạc-đờ-co. Điều đáng nói là hầu hết những tay gạc-đờ-co này đều đang
ăn lương ở Sở Mật thám. Xem như những tay gạc-đờ-co này vừa làm nhiệm vụ cho Sở
Mật thám vừa "làm thêm" cho điền chủ cao su.
Ngày thường,
ngoài việc bảo vệ an ninh cho điền chủ, những tay gạc-đờ-co còn có nhiệm
vụ trấn áp số công nhân cao su chây lười hoặc có biểu hiện chống đối chủ.
Khi đến kỳ
lương cuối tuần, điền chủ cao su thường giao séc cho gạc-đờ-co đi cùng công táp
(comptable: kế toán) và sốp-phơ (chauffeur: tài xế) thành bộ ba đến Ngân hàng
Đông Dương nhận tiền mặt đem về sở phát cho phu. Giai đoạn đó, khu vực ngoại
thành Sài Gòn đều là vùng ngoài tầm kiểm soát đối với chính quyền Pháp.
Những đoạn nối từ Ngân hàng Đông Dương (nằm ở cuối đường Charner, nay là đường
Nguyễn Huệ) đến các đồn điền cao su ngoại thành là đường đất đỏ nhỏ hẹp, đi
xuyên qua những vườn cao su rộng
mênh mông, vắng vẻ. Vì vậy, hiếm khi các điền chủ cao su dám đi trên những
chuyến xe chở đầy ắp tiền.
Trước khi thực hiện phi vụ đánh cướp táo tợn này, Sơn Vương đã bỏ ra mấy tháng trời ngồi
lê vỉa hè gần Ngân hàng Đông Dương để bán tiểu thuyết do chính ông sáng tác. Vừa
bán sách, Sơn Vương vừa chú ý quan sát và ghi nhớ đặc điểm từng người ra vào.
Ông thuộc nằm lòng giờ giấc, quy luật chiếc xe Peugeot chở tiền do Ren Gaillard
áp tải. Ông nhận thấy, trong số những chiếc xe hơi đến ngân hàng nhận tiền chỉ có chiếc Peugeot luôn lấm bụi đỏ, chứng tỏ
chủ nhân của nó nằm ở ngoại thành vắng vẻ. Không dại gì chọn cướp những chiếc xe sạch sẽ chỉ chạy trong
nội thành đầy rẫy cảnh sát.
Sau khi vạch kỹ
kế hoạch hành động, Sơn Vương nhận thấy không thể đánh cướp chiếc xe Peugeot
trong khu vực nội thành. Nếu phục kích chặn đường thì không thể đoán được
chiếc Peugeot sẽ đi ngả nào ra ngoại thành. Cuối cùng, Sơn Vương chọn cách bám đuổi theo chiếc xe chở tiền.
Muốn bám đuổi theo, Sơn Vương cần có chiếc xe mạnh hơn, nhanh hơn chiếc
Peuguot.
Ông sực nhớ đến
một người bạn tên Năm Đường là tài xế cho một viên công chức Pháp. Trước kia, mỗi
lần chở ông chủ ra nhà băng, Năm Đường thường ngồi xuống chiếu bán sách của Sơn
Vương đọc ké để giết thời gian. Năm Đường khoe với Sơn Vương chuyện ông chủ mới
tậu chiếc xe hơi hạng sang đắt tiền Clément Bayard. Vì đắt tiền nên tại
Sài Gòn chỉ có 5 chiếc. Năm Đường còn khoe ông chủ vừa cùng gia đình về Pháp
nghỉ hè, giao hẳn xe cho anh ta chăm sóc. Sơn Vương rủ Năm Đường dùng chiếc xe
đi "hát" (tiếng lóng: cướp). Nghĩ tới số tiền được chia phần quá lớn,
Năm Đường đồng ý.
Một ngày cuối tuần đầu tháng 7-1933, Năm Đường ngồi sau
vô lăng, Sơn Vương ngồi ghế phụ, Nguyễn Phương Thảo (sau này là Trung tướng Nguyễn Bình) ngồi ghế sau trên
chiếc Clément Bayard đã thay biển số giả, đậu sẵn ven đường cách Ngân hàng Đông
Dương vài trăm mét.
Khi chiếc xe Peugeot vừa rời ngân hàng, chiếc Clément
Bayard bám theo. Khi còn cách chiếc cầu sắt nối Sài Gòn với Hóc Môn vài cây số,
chiếc Clément Bayard tăng tốc vượt qua chiếc Peugeot rồi chạy rề rà. Khi chạy đến
giữa chiếc cầu sắt, chiếc Clément Bayard vờ chết máy nằm choán giữa cầu.
Năm Đường, Nguyễn Phương Thảo và Sơn Vương cùng xuống xe mở nắp capo vờ sửa chữa.
Nôn nóng chở tiền về sở, René Gillard xuống xe tiến đến cạnh chiếc Peugeot toan
cự nự thì tá hỏa khi nhận ra một họng súng lục chĩa thẳng vào đầu. Trong
khi Sơn Vương dùng súng khống chế René Gillard, Nguyễn Phương Thảo lục soát tước vũ khí rồi cùng Năm Đường
chuyển tiền từ chiếc Peugeot sang chiếc Clément Bayard, đồng thời lấy luôn chìa
khóa công tắc chiếc Peugeot.
Chuyển tiền xong, Năm Đường nổ máy sẵn, Nguyễn Phương Thảo
đã vào xe ngồi yên vị, Sơn Vương vẫn
nhắm súng vào René Gillard đi giật lùi rồi nhảy vào xe. Chiếc xe Clément Bayard tung bụi phóng thẳng
về hướng Hóc Môn. Dù vậy, Sơn Vương vẫn còn đủ thời gian ném khẩu súng
giả của mình về phía René Gillard.
Chạy đến Bà Quẹo, Năm Đường rẽ ngoặt xe về hướng Gò Vấp rồi
trở lại trung tâm Sài Gòn kiểm đếm số tiền cướp được 50.000 đồng Đông Dương. Số
tiền được chia đều làm 3.
Nguyễn Phương
Thảo dùng số tiền đó mua một căn nhà phố tương đối rộng rãi ở khu Đa Kao
mở tiệm giặt ủi lấy biển hiệu là Thảo Sơn (tên ghép của Nguyễn Phương Thảo và Sơn Vương).
Sơn Vương gởi một ít tiền về quê cho các em,
phần còn lại ông cùng Nguyễn Phương Thảo mua nhu yếu phẩm, gạo mang đi miền Trung phân phát từ thiện rất
nhiều chuyến cho đồng bào bị bão lũ. Thấy Sơn Vương mua nhiều gạo đi làm từ thiện, ông Nguyễn
Thanh Liêm - chủ nhà máy xay xát gạo ở Khánh Hội (Sài Gòn), cổ đông lớn
của một ngân hàng ở đường Pellerin (nay là đường Pasteur) - cũng tham gia 300
bao gạo, tương đương 15.000, đồng thời cho mượn xe, tàu tải hàng đến tận nơi.
Vụ cướp táo tợn này đã khiến hầu hết các tờ báo tiếng
Pháp lẫn Việt ngữ có mặt tại Việt Nam đều thi nhau giật tít. Cay cú, gã gạc-đờ-co
ăn lương Sở Mật thám Đông Dương René Gillard quyết truy xét vụ án đến cùng…
Sơn Vương là ai?
Lần theo quyển
hồi ký "Côn Đảo ký sự - Máu hòa nước mắt" của chính ông viết, chúng tôi tìm về nguyên quán của
ông ở "làng Bình Nghị, tỉnh Gò Công". Tuy vậy, việc tìm địa chỉ
"làng Bình Nghị" không hề đơn giản. Bởi, cái tên làng đó có từ đời Gia Long.
Đến thời kháng chiến chống Pháp, ta đổi làng Bình Nghị
thành xã Bình Nghị, thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công. Pháp đổi làng Bình Nghị
thành xã Hòa Nghị. Năm 1951, Gò Công trở thành huyện lị thuộc tỉnh Mỹ Tho. Năm
1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) nhập xã Hòa Nghị và Tân Duân Đông lại
thành xã An Hòa thuộc huyện Gò Công.
Thời kháng chiến chống Mỹ, ta đặt xã An Hòa thuộc huyện
Đông, tỉnh Gò Công. Chính quyền VNCH đặt xã An Hòa thuộc quận Hòa Lạc, tỉnh Gò
Công. Sau năm 1975, ta đổi tên xã An Hòa thành xã Bình Nghị, thuộc huyện Gò
Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Như vậy, 2 làng xưa là Bình Nghị và Tân Duân Đông nhập lại thành xã Bình Nghị ngày
nay.
Chúng tôi đã đi lòng vòng trong phạm vi 1.000ha diện tích
của xã Bình Nghị, hỏi thăm các bô lão địa phương nhưng tất cả đều không biết
"ông Sơn Vương là ông nào?".
Cuối cùng, chúng tôi ghé trụ sở Ủy ban nhân dân xã Bình
Nghị để rồi suýt bỏ cuộc vì hầu hết, không ai biết "Nhà văn tướng cướp Sơn
Vương là ai?".
Giữa lúc bối rối, bất ngờ anh công an viên tên Nguyễn
Thái Châu thốt lên: "Nhà văn tướng cướp Sơn Vương là người xứ này nhưng tôi không nhớ cụ thể ở ấp nào. Khẳng
định luôn! Tôi sẽ đi tìm".
Sau này chúng tôi mới biết, anh Châu là người rất mê đọc sách báo viết về lịch sử quê hương
Gò Công. Anh Châu đã đưa chúng tôi đi tìm. Sau vài lần hỏi thăm, cuối
cùng, chúng tôi được một nhà giáo về hưu chỉ đến nhà một người có tên gọi là Sáu Xiêm.
Sau vài câu
chào hỏi xã giao, ông Sáu Xiêm xác nhận ngay mình hiện giữ ngôi thờ tự
và chịu trách nhiệm cúng giỗ họ tộc, trong đó có nhà văn Sơn Vương.
Ông Sáu Xiêm có tên khai sinh là Trương Văn Thanh. Ông nội ông là chí sĩ Trương Văn Kỉnh
tức ông Biện Thới.
Theo quyển sổ
ghi chép của gia tộc thì ông Trương Văn Kỉnh là anh hai (người miền Nam gọi anh cả là anh hai) của 7 người
em gồm 2 trai, 5 gái. Người em út mang thứ Tám. Ông Trương Văn Thoại tức nhà
văn Sơn Vương là em thứ năm.
Trước khi tham
gia kháng chiến, ông Trương Văn Kỉnh làm chức ký biện (thư ký) ở Tòa bố tỉnh Gò Công (Tòa bố là trụ
sở hành chánh tỉnh lị). Là con trai đầu nên ông Kỉnh phải làm việc kiếm tiền
nuôi dưỡng, dạy dỗ các em.
Ông Trương Văn
Kỉnh sinh năm 1895. Còn nhà văn Sơn Vương sinh năm 1908 (không phải 1909
như nhiều tài liệu khác). Như vậy,
vào năm 1926, Sơn Vương 17 tuổi thì ông Trương Văn Kỉnh đã 31 tuổi.
Cha của nhà văn Sơn Vương là Trương Đình Cung Anh (1873-1951) - Cháu họ nội
của lãnh tụ nghĩa quân Trương Đăng Định,
tức Trương Định.
Ông Trương Đình
Cung Anh là thầy nho chuyên bốc thuốc nam trị bệnh chứ không phải là địa chủ
như một số người nhầm tưởng. Thời đó, hưởng thừa kế trên dưới 20ha đất ruộng, chỉ là trung nông, chưa phải
là phú hộ. Là người thức thời yêu nước, ông Trương Đình Cung Anh đều cho
3 người con trai ăn học đến hết bậc Supérieur (tiểu học). Nhờ tấm bằng Supérieur,
ông Trương Văn Kỉnh được thu tuyển vào làm việc cho Tòa bố tỉnh Gò Công. Khi
phong trào Hội kín yêu nước của nhà
cách mạng Nguyễn An Ninh lan tới Gò Công, ông Trương Văn Kỉnh đã tích cực tham gia.
Phần Sơn Vương
- Trương Văn Thoại - dù học rất giỏi và có năng khiếu văn chương nhưng sau khi
thi tốt nghiệp chương trình Cours Supérieur (Thi tốt nghiệp tiểu học để
bắt đầu bước vào học sơ trung học)
ông không chịu đi học nữa. Thời đó, muốn tốt nghiệp tiểu học, học trò phải
nộp đơn dự thi vào hội đồng giáo dục cấp tỉnh. Chỉ có cấp tỉnh mới được tổ chưc
thi tiểu học. Người học xong lớp "tam" là có thể đứng lớp dạy sơ học
trường làng hoặc đi xin vào các sở Tây làm thầy ký, thầy biện (thư ký, kế toán) hoặc làm thông ngôn. Người tốt nghiệp tiểu học có thể về làng làm
hiệu trưởng, mở trường học.
Thi xong tiểu
học, Sơn Vương kiên quyết không đi học trường Tây nữa mà trở về nhà học tiếng
Hán, tiếng Nôm và các bài thuốc đông y của cha.
Cùng thời điểm
đó, tuy bị đàn áp đẫm máu nhưng tiếng vang của phong trào Hội Kín Phan Xích
Long vẫn lan tỏa khắp Nam Kỳ. Cậu bé Trương Văn Thoại nuôi dưỡng trong lòng một tư tưởng nghĩa hiệp pha trộn giữa hai nền văn hóa
Đông và Tây.
Vì lẽ
đó, thay vì đi theo con đường cách mạng, ông lại chống Pháp theo cách “hiệp
khách giang hồ”.
Những ngày làm
cách mạng
Năm 1925, 16 tuổi ông bỏ nhà đi theo một đại lão sư phụ ẩn cư học đạo, tu luyện võ
công trên núi Thị Vãi và Mây Tàu.
Nơi ông ẩn cư
tu luyện trên núi Thị Vãi là ngôi chùa cổ Linh Sơn Bửu Thiền Cổ Tự thuộc xã Phú Mỹ, huyện
Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Ngôi chùa này được xây cất tre lá, không tên
từ thời Vua Gia Long bôn tẩu lánh nạn Tây Sơn. Các thư tịch cổ cho biết, người dựng chùa là ni sư Diệu Thiện có tên trần
tục là Lê Thị Nữ.
Bà đã
có công nuôi dưỡng, che giấu Vua Gia
Long trong thời gian nguy khốn nên sau khi khôi phục ngai rồng, ông đã
phong thánh cho ni sư là Linh Sơn
Thánh Mẫu và sắc ấn cho ngôi chùa với tên mới là Linh Sơn Bửu Thiền Tự. Ngôi Linh Sơn Bửu Thiền
Tự từng là nơi tụ họp của nghĩa quân Phan Xích Long trong thời gian mới khởi
phát. Phải chăng, đại lão sư
phụ của Sơn Vương là một trong những thành viên Hội Kín Phan Xích Long còn
sống sót?
Học võ được 1 năm thì sư phụ viên tịch, Trương Văn Thoại trở về Sài Gòn. Ông đi thẳng đến
tòa soạn tờ Đông Pháp Thời báo xin làm việc miễn lương. Năm 1925, luật sư Phan Văn Trường phối hợp với
Nguyễn An Ninh cho tái lập tờ báo Tiếng Chuông Rè, Trương Văn Thoại đến xin làm
cộng sự.
Buổi chiều
ngày 21/3/1926, Trương Văn Thoại phụ giúp ông Trương Văn Kỉnh tổ chức quy tựu
quần chúng để Nguyễn An Ninh diễn thuyết bài xích thực dân Pháp.
3 ngày sau,
ông Nguyễn An Ninh, Trương Văn Thoại, Trương Văn Kỉnh và hàng trăm người khác bị
mật thám bắt nguội đưa về giam ở bót Catinat Sài Gòn.
Tại bót Catinat, Chánh thanh tra mật thám Đông Dương là
cò Bazin buộc những người bị bắt giữ
phải ký tên vào một tờ khai ghi sẵn có nội dung buộc tội Nguyễn An Ninh
lập đảng cướp làm phản, quấy nhiễu dân chúng, mưu toan cướp chính quyền. Ai chấp nhận ký sẽ thả ngay và cấp tiền xe
về quê.
Hai anh em họ Trương cùng với hơn 60 người khác cương quyết không ký nên tiếp tục bị
giam giữ. Đích thân tên cò mật thám Bazin khét tiếng tàn ác vào tận phòng giam
dùng ba trắc “pín ngựa” đánh đập từng người để buộc họ ký tên.
Bằng uy tín của mình, luật sư Phan Văn Trường đã viết một bài tố cáo
bót Catinat giam giữ người dân vô cớ,
trái luật. Bài tố cáo vừa đăng trên báo Tiếng Chuông Rè vừa được gửi thẳng đến
tay Thống đốc Nam Kỳ là Cognacq. Trước lý luận sắc bén của bài báo tố
cáo, Thống đốc Nam Kỳ Cognacq đành ra lệnh cho Bazin thả hết những người bị giam giữ.
Thoát tù,
Trương Văn Thoại tiếp tục tìm nơi ẩn cư. Bộc bạch trong hồi ký, thời gian này ông vào núi tu luyện
thêm võ công.
Ngồi vỉa hè tự bán
sách của mình sáng tác
Năm 1931, ông trở lại Sài Gòn và bắt đầu viết một loạt tiểu
thuyết xã hội với bút danh Sơn
Vương.
Có thể nói,
ông là một văn sĩ có tài thu hút độc giả bằng những tiểu thuyết kỳ tình
xã hội lúc bấy giờ. Ông mô tả những tướng cướp lãng tử, giàu lòng nghĩa hiệp, chuyên cướp của nhà giàu để chia cho người nghèo.
Trong hồi ký, ông tự bạch rằng tác phẩm của ông luôn nhắm
vào 5 mục tiêu: 1/ Cốt truyện lấy đề tài thường xảy ra trong tầng lớp bình dân; 2/ Giải trí, giáo dục, răn đời,
làm ác gặp ác, làm lành gặp lành; 3/ Đả phá chính sách thực dân, gợi lòng yêu nước; 4/ Tả chân bình dị, bênh vực kẻ
cô thế, bài xích quan liêu; 5/ Đất nước Việt Nam là của người Việt Nam.
Sau 3 năm viết
tiểu thuyết, bút danh Sơn Vương bắt đầu có vị trí trong lòng độc giả thợ
thuyền bình dân khắp các tỉnh thành Nam Kỳ.
Kể từ đầu năm 1931, người dân Sài Gòn thường trông thấy một thanh niên cao, gầy, ăn nói mềm
mỏng, mặc bộ đồ xá xẩu (thường phục của người Hoa), trải chiếu trên vỉa hè đường
De La Some (Nay là đường Hàm Nghi) bán sách do chính mình sáng tác và ấn
hành. Ông hòa nhập vào cuộc sống vỉa hè của giới cạo gió giác hơi, chiêm tinh gia đường phố và phu xe.
Thời gian này
ông bày bán hơn 20 đầu sách như: “Bạc trắng lòng đen”, “Lỗi hẹn quên thề”,
“Ngọc lầm với đá”, “May nhờ rủi chịu”, “Làm ơn mắc oán”, “Kẻ thù dân tộc”, “Thà được làm chó hơn được làm người”, “Làm
nhơn được vợ, Phản bạn vì tình”, “Chén cơm lạt của người thất nghiệp”, “Sâu bọ nổi lên làm người”… Hầu hết những
quyển sách của ông được in khổ nhỏ (15,5 x 12cm) và mỏng khoảng vài chục trang
để giới thợ thuyền, giới lao động bình dân có thể nhét vào túi áo dành đọc
trong những giờ giải lao. Trong số sách có xin giấy cò xuất bản (1 loại giấy
phép thời đó), ông chen vào những quyển tiểu thuyết in thủ công có nội dung kêu
gọi nhân dân chống thực dân Pháp.
Thỉnh thoảng, ông gom góp số tiền lãi từ việc bán sách
mua gạo chia thành những bao nhỏ rồi lén ném vào những ngôi nhà nghèo khó ở ngoại
thành.
Mỗi khi vắng khách, ông ngồi tại vỉa hè sáng tác hoặc
giao du kết bạn với những phu xe ngựa Malabar.
Xe ngựa Malabar là một loại “xe ngựa taxi ” phổ biến ở
Sài Gòn giai đoạn đó. Thời đó, giới phu xe ngựa đa phần là người Ấn Độ di cư từ vùng biển Malabar, Pondichéry (Ấn
Độ) hay từ Singapore đến Sài Gòn kiếm cơm. Vì vậy, người ta gọi
chung loại “xe ngựa taxi” này là xe malabar. Người Ấn Malabar có tính cẩn thận
cao nên một số được tuyển dụng làm gác-dan (bảo vệ cổng) và hành nghề đổi tiền.
Họ đặt chiếc thùng to như chiếc bàn trên vỉa hè rồi treo những cọc tiền lủng lẳng
để đổi tiền lẻ cho khách qua đường. Từ giới xe ngựa Malabar, Sơn Vương lan rộng
mối quan hệ của mình với giới phu bốc vác Malabar, gác dan Malabar và giới
đổi tiền để bổ sung kiến thức… cướp cho mình.
Với giới phu xe, Sơn Vương tìm hiểu thói quen đi chợ, mua sắm và địa chỉ của giới nhà
giàu. Với giới gác-dan, ông tìm hiểu công thức bảo vệ. Với giới đổi tiền, ông
tìm hiểu những địa chỉ giàu có. Ông tự lập cho mình một loạt những kế hoạch cướp táo bạo.
Trong thời
gian ngồi vỉa hè bán sách, khi đêm xuống, ông cuốn chiếu về tá túc trong căn
gác trọ của tiệm may Nam Hưng ở số 2, đường Lefebvre (nay là đường Nguyễn Công
Trứ, phường Cầu Ông Lãnh, quận 1, TP HCM). Ông Tư Chiêu – chủ tiệm may Nam Hưng – là bạn đồng liêu
của ông Trương Đình Cung Anh (thân phụ của Sơn Vương) từ thuở tóc còn để chỏm ở quê Gò
Công.
Giữa năm 1933, đám lính cò không cho giới hàng rong bám vỉa
hè đường De La Some, Sơn Vương dời địa điểm bán sách sang lề đường Charner
(Nguyễn Huệ). Tại đó, ông gặp gỡ với một thanh niên lang bạt tên là Nguyễn Phương Thảo, sau này trở thành Trung tướng độc
nhãn Nguyễn Bình – Tư lệnh
các lực lượng quân sự Nam Bộ những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954).
Từ cuộc hội ngộ
kết tâm giao này, Sơn Vương đã quyết định đánh cướp để giúp bạn có tiền
mở tiệm giặt ủi, đồng thời cứu trợ người nghèo.
Cướp kiểu… tiểu thuyết
Sau khi thành
công vụ cướp tiền của René Gaillard, nghĩ mình đã nằm ngoài tầm điều tra
của cảnh sát, Sơn Vương còn tiếp tục đi “hát” thêm 4 phi vụ đậm chất hiệp khách
giang hồ nữa. Đặc trưng nhất là vụ cướp tiền của giang hồ Sáu Ngọ.
Tại Chợ Lớn những
năm đó, có 2 ông vua đầu tư sòng bạc lớn, đó là Tư Nhiều và Sáu Ngọ. Sáu Ngọ có tên Tây là Paul
Daron. Sáu Ngọ là chồng của nghệ sĩ sân khấu cải lương tài danh Bảy Nam. Ông là
người bỏ tiền cho nghệ sĩ Bảy Nam lập gánh cải lương Nam Hưng Ban. Sau khi chia
tay nghệ sỹ Bảy Nam, ông đã gặp và kết bạn tình với mỹ nữ Trần Ngọc Trà,
tức Ba Trà – một nhan sắc lừng danh Sài Gòn.
Khi mới quen, để lấy lòng người đẹp, Sáu Ngọ đặt may tặng cho Ba Trà 365 bộ đồ
để thay đổi mỗi ngày. Dưới trướng Sáu Ngọ là hàng chục sòng bài có giấy
phép của chính quyền Pháp. Chỉ riêng sòng ở vườn Bureau (nay là Công viên Tao Đàn), mỗi ngày Sáu Ngọ thu 2 bao tiền.
Hằng ngày, Sáu
Ngọ thường sai gạc-đờ-co của mình là Sáu Maniven đi cùng tài xế đến từng
sòng thu tiền. Sáu Maniven xuất thân là giang hồ bến xe Cái Vồn, Cần Thơ, dưới trướng của đại ca giang hồ Năm Lửa,
tức Trần Văn Soái. Sau này, Năm Lửa trở thành tướng lĩnh quân đội Hòa Hảo.
Trong một lần giành khách bán cho xe đò đường dài Cái Vồn – Chợ Lớn, Sáu dùng cây ma-ni-ven (tay quay khởi động
xe) đánh chết đối thủ rồi trốn về Sài Gòn ẩn náu. Vì vậy, Sáu có hỗn danh là
Sáu Maniven. Sáu Ngọ thu tuyển Sáu Maniven làm gạc-đờ-co cho mình. Là dân gốc
giang hồ có án nên Sáu Maniven không dám xài súng mà chỉ lận trong lưng con dao dâu.
Sau khi điều
nghiên, Sơn Vương nhận thấy hằng ngày cứ đến tầm 19 giờ là Sáu Maniven cùng tài
xế lái xe hơi đến sòng ở vườn
Bureau thu tiền rồi tiếp tục chạy về hướng Thị Nghè. Ông quyết định hành động một
mình. “Canh me” lúc Sáu Maniven vừa rời xe hơi bước vào sòng, ông leo lên ghế sau xe
chĩa súng vào đầu tài xế khống chế. Sáu Maniven ôm bao tiền trở ra, mở cửa xe,
ông tiếp tục chĩa súng vào đầu. Sáu Maniven chỉ còn biết riu ríu ôm bọc tiền ngồi
vào xe cạnh Sơn Vương.
Sơn Vương buộc
tài xế chạy tiếp về hướng cầu Thị Nghè. Khi đến chỗ vắng, Sơn Vương đẩy tài xế
lẫn Sáu Maniven ra khỏi xe rồi cầm lái phóng xe biến vào đêm tối.
Sáu Ngọ bị cướp
tiền thu sòng bài rất đau nhưng không dám tố cáo với cò Pháp. Nếu làm
rùm beng, chính Sáu Ngọ bị bể nồi cơm.
Sáu Ngọ lệnh cho Maniven: “Đi tìm hung thủ, gặp đâu giết đó”. Maniven
chưa tìm ra hung thủ là ai thì Sơn
Vương bị bắt bởi vụ cướp xe chuyển tiền lương của Sở cao su.
Trong vụ cướp
xe chuyển tiền lương của Sở cao su, Sơn Vương bị hở sườn một chi tiết không
đáng có. Đó là ông đã sử dụng chiếc xe hơi đắt tiền Clément Bayard của Năm Đường mượn. Vì là xe hơi đắt tiền nên khắp Sài Gòn chỉ có
5 chiếc.
Không hổ danh là trùm mật thám Sài Gòn, qua mô tả của gã
gạc-đờ-co René Gaillard, cò Bazin – Chánh sở Mật thám ra lệnh cho lính tra bộ
tìm địa chỉ của 5 chiếc Clément Bayard hiện có tại Sài Gòn. Sau khi sàng lọc,
cò Bazin nhận thấy ngày xảy ra vụ cướp,
chủ nhân của 4 chiếc kia đều có chứng cứ ngoại phạm. Chỉ có chiếc của tên công
chức Pháp mà Năm Đường làm tài xế có nhiều dấu hiệu nghi vấn.
Tra hồ sơ, cò
Bazin biết được chủ nhân của chiếc xe đang đi nghỉ hè cùng vợ con ở Pháp. Trước khi đi nghỉ hè, ông ta giao chiếc xe
cho tài xế riêng tên thường gọi là Năm Đường chăm sóc.
Không chần chờ,
Bazin cho lính đi lùng bắt Năm Đường.
NÔNG HUYỀN SƠN
Nguồn: ANTG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét