Nhà văn Trang Thế Hy
Đã nhiều lần, tôi vẫn thường xuôi theo những con suối nhỏ,
dòng nước trong veo , chảy thành khe từ rừng sâu núi thẳm. Thú vị nhất là khi
nhìn những dòng nước nhỏ mát lạnh, từ triền cao đổ xuống dội lên tấm lưng của tảng
đá già tạo thành từng tiếng kêu… róc rách. Tiếng róc rách của suối hoà cùng một
giọng xào xạc của gió đại ngàn, cộng với tiếng véo von của chim muông rừng rú…
dễ làm cho ta ngất ngây, mê đắm. Những lúc như thế tôi thường hay nhớ đến một
chữ Tình. Và rồi theo qui luật tự nhiên, dòng nước của con suối nhỏ lại đổ về một
con sông lớn, con sông lớn ấy luôn tạo cho mình một phong cách rất riêng: lúc
quanh co vật vã, lúc luyến lái đa tình nhưng cuối cùng vẫn phải về với biển.
Trước sân nhà tôi có một cây xoan. Vào mùa xuân, lá xoan
xanh mởn, hoa trắng nở đầy… Sức sống của cây, vẻ đẹp của hoa và lá lồ lộ một sự
sung mãn giống như con người ta bước vào tuổi trăng tròn mười tám. Vào hạ, lá
và hoa đã hút no đầy linh khí của trời đất, tạo ra vô số những chùm quả nhỏ. Rồi
đến mùa thu, cũng là lúc những quả trên cây chín mộng, còn đám lá xanh non giờ
đã chuyển sang màu vàng rực rỡ. Nhưng chỉ một chút đông thôi, những chiếc lá
vàng cuối cùng trên cây đã rơi về nguồn cội…
Tôi không có ý so sánh ông với một dòng sông… Lại càng
không cố tình thần thánh hoá ông với một rừng thu vàng lá. Nhưng cái cách mà
ông nói - phải đi chỗ khác chơi, cũng giống như dòng sông phải về biển cả… Như
chiếc lá vàng về với cội rễ đất đai.
Ông nói “Gìa rồi…đi tìm chỗ khác chơi”. Nhưng nơi ông tìm
không phải chỗ chơi, ông đang trở về nơi ông đã ra đi. Ở nơi đó có “Nắng đẹp miền
quê ngoại”; có “Tiếng khóc và tiếng hát”… Ông còn làm chủ một xưởng dược
"tinh thần": “Bào chế thuốc giảm đau" cho đời”…
Qua phà Rạch Miễu (bây giờ là cầu) về hướng xứ Dừa Bến
Tre chừng mươi cây số, ở đó có một con đường nhỏ. Con đường ấy bây giờ vẫn chỉ
là con đường đất trộn đá, vào mùa mưa nước đọng thành từng vũng, mùa nắng thì
chỉ cần dập mạnh gót chân, bụi mù đã tung tẩy bay lên từng đám lớn. Trong con
đường đó có căn nhà nhỏ của ông. Bạn bè cho biết, để có mấy công đất ruộng và
căn nhà nhỏ ấy, ông đã phải làm việc miệt mài cả một đời văn. Từ ngày ông về, tức
là ông đã tìm được “chỗ khác để chơi”, thì con đường đất hướng vào nhà ông trở
nên nhộn nhịp bởi những bạn văn khắp nơi kéo tới. Người đã thành danh cũng nhiều,
kẻ mới tập tạnh theo kiểu nhà văn tỉnh lẻ như tôi cũng lắm. Đặc biệt nhất là có
nhiều người, cả đời chưa viết nổi một câu thơ… họ chỉ là bạn đọc, thương những
nhân vật do ông sinh ra mà tìm đến tỏ bày cảm xúc. Đối với một nhà văn cả đời tận
tuỵ với nghề, sống đẹp với đời thì đó là món quà trên cả tuyệt vời.
Tôi đã nhiều lần tới căn nhà nhỏ của ông. Căn nhà nhỏ nên
những vật dụng trong nhà đều nhỏ, trước sân lại là một mảnh vườn nhỏ, ở đó ông
trồng vài cây dấp cá, năm bảy bụi tía tô, một hai cây bưởi… Sau nhà là vườn dừa
sum xuê quanh năm cho trái. Tôi đoán, ngoài lương hưu thì thu nhập lớn của một
nhà văn nổi tiếng như ông là chính vườn dừa. Cũng lô gích thôi, ông viết đâu có
nhiều, mỗi năm chỉ vài truyện ngắn… Từng ấy tác phẩm, nhà văn không thể sống bằng
văn chương. Trước giờ đã có nhiều “cây cao bóng cả” trong làng văn và phê bình
văn học đã viết về con người, sự nghiệp của ông. Người thì cho rằng ông là “Người
hiền của văn học Nam bộ”; người nhận thấy “Ông là người hóm hỉnh và thâm thuý”…
Có người lại tìm được ở ông “Một sự khó tính mến yêu”…
Tiếp xúc với ông nhiều, tôi còn thấy ông là một người rộng
lượng, mến khách và rất hiểu tâm tính người khác. Nếu là người cùng nghề, ông
thừa biết “nghề ngỗng” của người đó chẳng đi tới đâu, nhưng ông vẫn trải lòng với
nghiệp văn chương. Còn người không cùng nghề, ông vẫn có nhiều câu chuyện thú vị
về đời để hàn huyên cùng họ. Ông là người khó tính! Đúng thế, nhưng đúng hơn
thì ông khó với bản thân và văn chương của mình. Ông là người yêu sự thanh tịnh,
ghét thói bê tha, hời hợt. Trong các mối quan hệ, kể cả những việc nhỏ trong
sinh hoạt thường ngày, ông luôn tôn trọng qui tắc ứng xử phải có văn hoá.
Có lần ông nói: - Ở tuổi ông bây giờ đang là giai đoạn mục
rữa,nhưng mục rữa cũng phải như thế nào để coi cho được… không lẽ một ông già
tám mươi lại đi uống bia ôm… Cái đó thì không thể được rồi. Có nhiều tác phẩm,
đáng ra bây giờ đã đến tay bạn đọc, nhưng chỉ vì còn vài chữ mà ông chưa vừa
lòng và không chấp nhận công bố coi đó là một sự dở dang cần phải tiếp tục hoàn
thiện. Ông khó tính với chính mình và văn mình là như vậy. Ông là người giàu
“cá tính”. Điều đó thì đúng rồi. Quí ông ở chỗ, ông không có thói quen áp đặt
cái tôi của mình lên người khác. Đối với những người mà ông mến yêu, ông thường
nhắc tên với vài lời khen nhẹ nhàng. Còn với người không hợp tạng thì ông chỉ
cười và lái câu chuyện sang một hướng khác… Có lẽ đối với ông ở thế gian này
không có ai là tuyệt đối xấu, có chăng là họ chưa kịp sống tử tế mà thôi.
Mỗi lần đến thăm ông, ông thường hay mời uống rượn. Không
nhiều đâu, chỉ một hai ly, có khi là rượu tây, có bữa là một cốc đế thơm ngon
đúng điệu. Với ông, rượu chỉ là chất kích thích giúp cho câu chuyện bớt đi phần
nhạt, còn uống tèm lem, say bí tỉ thì ông chẳng thích chút nào. Ngày xưa ông học
trường Tây nên ông yêu thích văn học Pháp. Ông hay nói: - Các nhà văn Pháp họ
viết nhiều hơn nói. Riêng đối với Hê-min-uê, ông coi là nhà văn bậc thầy. Ông thường
mượn những câu chuyện của Hê-min-uê để gửi gắm thông điệp về chuyện nghề với những
người trẻ. Ông kể, khi trả lời một nhà báo người Áo về những điều kiện cần có của
một nhà văn, Hê-min-uê đã trả lời rằng: - Có năm điều kiện. Một là thái độ
chính trị, thứ hai là đàn bà, thứ ba là chất kích thích, thứ tư là tham vọng và
điều kiện thứ năm chính là thiếu bốn điều kiện trên.
Với tôi, ông là bậc cha, chú lại được ông coi như chỗ
thâm tình, mỗi khi gặp mặt, ông vẫn thường hay lựa lời nhắc nhở. Ông nói: - Ở
cái tuổi như tôi (thế hệ 6x) là cái tuổi đang phát hoả của một đời người. Vậy
thì phải biết phát hoả như thế nào cho đúng điệu, đúng cách, phát hoả bằng năng
lực và sự thành tâm của chính bản thân… Còn phát hoả theo kiểu hoả hoạn,
xicanđan... thì oẹ lắm.
Bây giờ “ông già của tôi” đã qua tuổi tám mươi rồi. Nhưng
ông vẫn giữ được sự tinh anh, thâm thuý, tuy rằng tiếng bước chân đi đã có phần
nặng nhọc. Ông thường hay dùng cụm từ “mục rữa” để nói về quá trình lão hoá tự
nhiên của một con người. Vẫn biết văn chương của ông không có tuổi. Nhìn dáng
ông đi từng bước chậm, tôi lại nhớ đến tâm sự của người nghệ sĩ trong truyện ngắn
“Tiếng khóc và tiếng hát”: - Nhắc nhở người cầm bút đừng bao giờ đánh mất điểm
tựa đáng tin cậy của mình là nỗi đau lớn nhất của một số đông thầm lặng.
Thiên lương của người nghệ sĩ trong ông thật đẹp. Cái đẹp,
cái thiện nó không chỉ phát tiết ra từ trang văn, nó còn hiện hữu ngay cả trong
những ngày thường lặng lẽ.
PHAN TẤN HÀ
Nguồn: NVTPHCM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét