TS. Phạm Ngọc Hiền
Bút pháp phê bình thi pháp học được sử dụng
rất nhiều trong cuốn sách, nhất là ở hai phạm trù không gian và thời gian. Tác
giả đã cho thấy sự đa dạng mô hình không gian trong bộ tiểu thuyết sử thi Cửa
biển của Nguyên Hồng. Đồng thời, còn chỉ ra mối quan hệ giữa các loại
không gian đó và chức năng của chúng. Như loại không gian công cộng có chức
năng tạo tinh thần đoàn kết của quần chúng, không gian hoàng tráng có chức năng
dung chứa các sự kiện lịch sử lớn. Không gian ngày càng giãn nở kích thước và
chuyển dần từ tĩnh sang động. Có thể nói, nếu không nghiên cứu chuyên sâu về
lĩnh vực thi pháp học thì Phạm Ngọc Hiền khó có thể triển khai vấn đề một cách
sâu sắc và hợp lý như thế. Tác giả cũng phân tích tính sinh động của thời gian
chiến tranh và thời gian hoài niệm trong văn Huỳnh Thạch Thảo. Thời gian gõ nhịp
cho tư duy của nhà văn. Có khi nó trôi chậm chạp, có khi biến dịch ồ ạt, có lúc
khách quan, có lúc chủ quan, một thế kỷ có thể co rút bằng một đêm suy tư của
nhân vật. Trong truyện vừa Bạn cùng thời, nhà văn đã sử dụng khá
nhiều thủ pháp của thời gian trần thuật nên làm cho câu văn linh hoạt, không
đơn điệu. Hiếm có cây bút nào bị ám ảnh thời gian nhiều như vậy, "Có thể
nói, thời gian là ông chủ vạn năng trong văn Huỳnh Thạch Thảo".
Bút pháp phê bình ngôn ngữ học được tác
giả sử dụng ở những bài bình thơ, như bài "Hình tượng con tàu, sân ga
trong thơ Xuân Quỳnh". Anh đã thống kê tỉ mỉ tần số xuất hiện nhóm từ
ngữ này và đi đến khẳng định, hiếm có ai nhắc đến hình tượng con tàu sân ga nhiều
như Xuân Quỳnh, trong khi nó có vẻ không thích hợp với cá tính nữ. Tác giả lý
giải rằng, điều đó xuất phát từ cá tính mạnh mẽ cuồng nhiệt của nhà thơ và do cảm
quan của thời đại cách mạng chi phối. Tác giả cũng giải thích các lớp nghĩa
khác nhau để cho thấy sự thể hiện hết sức phong phú của hình tượng con tàu.
Thao tác bình giảng ngôn ngữ học vốn không thể thiếu khi phân tích thơ. Tác giả
đã dùng nó để giải nghĩa từ "rút" trong tập thơ Trăm phần
trăm gió sương của Vũ Quang Tần: "Rút sợi tóc trắng trên đầu /
Sởn sơ cái tuổi nhàu nhàu tháng năm". Đang mải "sởn sơ" với
cảm xúc tươi trẻ, nhà thơ chợt dừng lại làm cái động tác mà khiến Nàng Xuân phải
chau mày: "Rút sợi tóc trắng". Cũng như tuổi xuân của con người, cọng
tóc khi đã "rút" ra thì không thể "cắm" lại được nữa, nhưng
cũng không có nghĩa là "nhổ" bỏ đi. Người ta đưa tay "rút"
một thanh gươm, một cây bút hoa hay một... cọng tóc là có chủ ý rõ ràng. Nếu
đem sợi tóc trắng này soi dưới cặp mắt hiển vi, ta có thể đoán định
chủ nhân của nó đã trải qua bao nhiêu phần trăm sương gió ở đời". Có thể
thấy trong đoạn văn này lối phê bình tài tử, nhà thơ đã ngông nhưng nhà phê
bình cũng không chịu lép vế cái phần ngông. Có khi bình một bài thơ, tác giả chỉ
chú trọng một chữ, như chữ "tắt" trong bài Ao làng của
Nguyễn Khôi. "Cái đêm hè ấy ai ra tắm / Để cả bầu trời phải tắt trăng".
"Mặt trăng được tạo ra để toả sáng cho cả thế gian. Thế mà chỉ vì một cô
gái đang tắm ở cái ao làng nào đó vô danh trên đất Việt Nam mà ánh trăng phải tắt
(...) Phủ lên bóng tối là để bảo vệ cho sự trong trắng của cô thôn nữ hay là tạo
cơ hội cho tình yêu đến với nhau ? (...) Đêm ấy, cả vũ trụ như vì họ, và cả thế
gian dường như cũng chịu thiệt thòi một chút vì họ. Mặt khác, giả sử vũ trụ kia
có con mắt đa tình và ưa mơ mộng thì cũng có thể tắt trăng để thả hồn chiêm ngưỡng
nàng trong bóng tối (...) Bởi vậy không phải lúc nào ánh trăng cũng cần thiết
cho tình yêu. Chắc chị Hằng cũng hiểu được điều đó". Ở đây, ngôn ngữ phê
bình có sự hoà trộn tuyệt vời với ngôn ngữ thơ.
Phương pháp hiện tượng học thiên về nhận
thức cảm tính của người phê bình. Ingarden cho rằng: "chủ thể tiếp nhận
tác phẩm cũng phải tiếp nhận theo dụng ý của mình để khẳng định giá trị thẩm mỹ
của tác phẩm". Đọc truyện ngắn Ngô Phan Lưu, Phạm Ngọc Hiền có hứng thú đặc
biệt đối với những nét dị thường của nó bởi vậy, anh chỉ tập trung khai thác những
chi tiết khác lạ trong hình tượng và ngôn ngữ. "Cây cọ vẽ siêu thực Ngô
Phan Lưu đã chấm phá vào những nét vẽ gân guốc, phủ lên những sắc màu hư ảo,
làm cho sự vật mang hình dáng và tính cách dị thường"."Đi vào thế giới
ngôn từ của Ngô Phan Lưu, ta có cảm tưởng như đang ngồi trên chiếc xe bò lộc cộc
trên con đường gồ ghề dẫn vào vườn cổ tích. Tuy cũng vất vả nhưng bù lại, được
chiêm ngưỡng một thế giới kỳ thú và đầy ắp tiếng cười". Phạm Ngọc Hiền
cũng chỉ ra sức hấp dẫn trong tập truyện Mùa bướm vàng bay của
Trần Quốc Cưỡng là ở hình tượng người phụ nữ. Bởi đa số các nhân vật nữ đều có
cá tính mạnh và khao khát tình yêu tuyệt đích. Nhà phê bình đã định hướng lối cảm
thụ cho đôc giả theo cảm quan của mình.
Tập sách "Những nẻo đường văn chương"
Phương pháp loại hình học có nhiều biểu
hiện khác nhau nhưng tác giả thường phân tích tác phẩm theo đặc trưng của thể
loại văn học. Anh đã khai thác truyện ngắn Rừng xà nu từ góc độ
loại hình sử thi, bởi vậy đem đến một cách nhìn mới mẻ về tác phẩm này. Theo
tác giả, Rừng xà nu là truyện ngắn thể hiện rõ nét nhất những
đặc điểm của loại hình sử thi trong văn học cách mạng. Điều này được thể hiện
qua nội dung thể tài, tính cách nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ... Trong bài phê
bình tập tản văn "Sống chậm thời @", tác giả cũng triển khai bài viết
theo các đặc điểm của thể loại tản văn. Bên cạnh những nét chung, Lê Thiếu Nhơn
và Nguyễn Ngọc Tư cũng có những nét khác nhau. Tuỳ bút của Nhơn mang tính báo
chí còn tuỳ bút của Tư mang đậm tính văn chương. Nhơn viết theo ngôn ngữ chuẩn,
còn Tư viết theo khẩu ngữ Nam Bộ... "Một nhà báo nam và một nhà văn nữ
mang bản sắc của hai vùng đất khác nhau đã góp phần làm đa dạng thêm những sắc
màu chữ nghĩa của tập tản văn "Sống chậm thời @"".
Bút pháp phê bình Phân tâm học vốn rất
khó sử dụng bởi nói trừu tượng và đòi hỏi người phê bình phải có một vốn văn
hoá phong phú và am hiểu những vấn đề tâm lý học. Trong bài "Những lớp
trầm tích văn hoá trong thơ Triệu Lam Châu", Phạm Ngọc Hiền phải tìm
hiểu cả văn hoá Tày, Việt, Tây Nguyên, Văn hoá Nga... để có thể thấy được sự
phóng chiếu các nền văn hoá ấy trong sáng tác của kỹ sư địa chất Triệu Lam
Châu. Ngoài ra, còn phải nghiên cứu cả "bút pháp giao thoa văn hoá"
và chỉ ra những đóng góp của nhà thơ - dịch giả này trong việc giao lưu văn học
các dân tộc. Trong bài "Dòng chảy của tiềm thức trong thơ ca",
tác giả đã phân tích chỉ ra bốn vấn đề ám ảnh thơ Phan Hoàng là: tiếng gọi ái
tình, nỗi thương nhớ đồng quê, ký ức chiến tranh và suy tư nhiều về sự phi lý ở
đời. "Bốn đề tài nói trên thực ra là các nhánh rẽ của dòng chảy tiềm thức.
Thơ ca giống như một hộp đen con tàu "lưu giữ những giấc mơ chênh vênh tiềm
thức". Nếu chịu khó giải mã những ký hiệu của nó, bạn đọc có thể sẽ tìm thấy
hình bóng của mình trong đó".
Phương pháp phê bình chân dung văn học vốn
thường thấy trên báo chí hiện nay cũng được tác giả sử dụng. Bài Trang
thơ và cuộc đời viết về cuộc song hành giữa thơ và đời của Nguyễn Tường
Văn, người thủ lĩnh phong trào sinh viên dân chủ ở Đà Lạt năm xưa. Thơ gắn với
đời, đời phong ba thì thơ cũng thác ghềnh. "Trước năm 1975 thường có giọng
hùng tráng khi đấu tranh. Sau 1975 có giọng tin yêu đôn hậu ở giai đoạn đầu,
chút cổ kính ở giai đoạn sau, và thỉnh thoảng có tiếng cười thâm trầm của một
người đã trải qua nhiều biến cố ở đời". Trong bài viết về Huỳnh Văn Quốc,
người đoạt giải thưởng Tác phẩm tuổi xanh năm 1995, tác giả chỉ đi sâu tìm hiểu
những đặc điểm và mặt mạnh của anh trên hai lĩnh vực thơ và văn. "Huỳnh Văn
Quốc không chỉ canh tác trên cánh đồng thơ mà còn canh tác cả bên cánh đồng
văn. Anh đầu tư vun xới cả hai bờ thơ - văn mà không phân biệt đối xử với bên
nào (...) Trong văn xuôi có chất thơ nhạc, đó là kết quả tất yếu của một cây
bút bị phân thân thành người Văn - người Thơ".
pháp phê bình xã hội học vốn đã phổ biến
ở Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay. Phạm Ngọc Hiền đã sử dụng phương pháp này
trong bài "Những thành tựu của văn học Phú Yên thế kỷ XX". Tác giả đã
đặt văn học Phú Yên trong sự phát triển của lịch sử xã hội. Các sự kiện chính
trị lớn tại địa phương đều có ảnh hưởng sâu sắc tới tình hình văn học tỉnh nhà.
Trong bài "Nhìn lại nền văn nghệ cách mạng Việt Nam trong 30 năm chiến
tranh", tác giả cũng cho thấy đặc điểm của nền văn nghệ giai đoạn này là
hướng tới phục vụ các mục tiêu chính trị của Đảng cộng sản, lấy chủ nghĩa Marx
làm kim chỉ nam. Đó là một nền văn nghệ mang đậm tính chất sử thi, hai thể loại
đạt nhiều thành tựu xuất sắc nhất là ca nhạc và phim ảnh. Có thể thấy ở hai bài
viết này tinh thần nghiên cứu nghiêm túc, chân thực, khách quan, không bị chi
phối bởi các định kiến xã hội.
Phạm Ngọc Hiền thường kết hợp nhiều phương pháp trong mỗi
bài phê bình, có thể thấy điều đó trong bài "Đi tìm lời giải đáp cho sức hấp
dẫn của Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và Mãi mãi tuổi hai
mươi". Anh đã sử dụng phương pháp loại hình để xác định đặc trưng của
thể loại nhật ký, vận dụng phương pháp ký hiệu học để giải mã
các bí mật ngôn từ trong Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm. Dùng phương
pháp tâm lý học để tìm hiểu sự phức tạp trong tình cảm của
Trâm với M và Thuận, dùng phương pháp so sánh để chỉ ra những
nét hấp dẫn riêng của hai cuốn nhật ký. Bài viết được trình bày theo các phạm
trù của phương pháp Mỹ học: Chân - Thiện - Mỹ. Anh cũng đặt hai tác
phẩm vào trong bối cảnh văn học Việt Nam (phương pháp hệ thống) và
trong hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam (phương pháp xã hội học). Bài viết có sự
kết hợp giữa lối nghiên cứu bên ngoài ( phương pháp lịch sử - phát sinh)
và lối nghiên cứu bên trong (phương pháp hình thức)...
Mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm nên việc kết hợp
chúng lại với nhau có tác dụng bổ khuyết, giúp cho công trình thêm hoàn thiện,
có tính thuyết phục cao. Đồng thời, tránh được sự đơn điệu và tăng tính sinh động
cho bài viết. Tập phê bình Những nẻo đường văn chương cho thấy,
tác giả có sự kết hợp chặt chẽ giữa con người nghệ sĩ và con người khoa học. Hy
vọng rằng, Phạm Ngọc Hiền sẽ còn tiếp tục đi xa hơn trên những nẻo đường phê
bình văn học.
TS. MAI THỊ LIÊN GIANG
Đại học Quảng Bình
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét