Nhà thơ Thu Nguyệt
Điểm khác biệt giữa Thu Nguyệt với các nhà thơ nữ cùng thời
đó là Thu Nguyệt chọn cho mình một lối đi riêng. Thơ chị dịu dàng, đằm thắm, không
đưa ra những phát ngôn gây sốc hay thể hiện một cách mạnh mẽ táo bạo cái tôi cá
nhân. Chị cũng không chạy theo trào lưu viết mới theo dấu ấn hiện đại, hậu hiện
đại như nhiều người. Chị lặng lẽ viết trên lối thơ truyền thống. Với nhà thơ
Thu Nguyệt, chị quan niệm: “Viết theo truyền thống hay hiện đại không quan
trọng, cái quan trọng là chuyển tải được gì vào trong thơ và làm sao gây được sự
cảm tình đối với độc giả mới là cái đáng quan tâm nhất”.
Thu Nguyệt nhìn cái gì cũng có sự dung hòa, biện chứng,
cái gì với chị cũng đều theo quy luật. Chính vì vậy cho nên, dù thấy trong thơ
chị có nhiều nỗi buồn nhưng đó là cái buồn man mác, cái buồn vừa phải, không
quá bi lụy, sầu thảm hay tuyệt vọng. Nỗi buồn trong trẻo, lấp lánh những tia hi
vọng. Chị biết tiết chế nỗi buồn và hóa giải nó… Đọc thơ chị, người đọc nhận thấy: Thu
Nguyệt - Nhà thơ “hóa giải nỗi buồn bằng sự thấu hiểu lẽ đời và quy luật”.
Chị bình tâm suy xét, nghĩ suy về những điều xảy ra trong đời sống với cái nhìn
đầy trách nhiệm, bao dung, tỉnh táo, bản lĩnh và đầy tự tin.
Ta ngồi ngắm mãi bàn tay
Ngửa rồi lại úp, ngắn dài trắng đen…
Biếng lười đếm giọt nhớ quên…
Nhẹ không…
lòng
cứ hồn nhiên với buồn
(Hồn nhiên)
Điều mà Thu Nguyệt quan tâm nhất đó là vấn đề thời gian.
Có những điều làm cho nhà thơ trăn trở, day dứt khôn nguôi, tưởng khó có thể lý
giải; phải ngược về quá khứ, hướng đến tương lai mới có thể an lòng:
Ta tìm hoài
gió trong nhau
Gió tan lại
miệt mài đau suốt đời
Ta quên có
một bầu trời
Bên ngoài
ngọn gió có rồi lại tan
(Gió tan)
Từ Đồng Tháp
chuyển về Sài Gòn công tác, trong chị không bao giờ quên mảnh đất quê hương nơi
đã chôn nhúm rau mình ở đấy. Nơi gắn bó với bao ký ức niềm thương, với ông bà,
cha mẹ, người thân, gia đình, hàng xóm, ruộng đồng, bờ bãi, sông nước… Vùng đất
Đồng Tháp Mười đã ăn sâu trong từng tế bào, từng huyết mạch của chị. Do vậy,
Thu Nguyệt nhớ lắm, nhớ những gì dân dã, chân quê của xứ sở mình. Dù đang sống
nơi phồn hoa, phố thị nhưng chị vẫn canh cánh.
Thị thành
dù giáp dấu chân
Nằm mơ vẫn
nhớ lời dân miệt đồng
(Bến lở )
Cái gốc quê
không chỉ là máu thịt mà nó còn hun đúc bởi cái nôi văn hóa của vùng đồng bằng
sông nước Cửu Long. Nỗi nhớ quê, nhớ cha lại trào dâng trong chị.
Đồng ruộng
quê mình làm bằng dấu chân ba
Từ đấy cần
cù mọc lên ngọn lúa
Con lớn lên
trên cánh đồng ngậm sữa
Đứng nơi
nào cũng trên dấu chân ba
(Dấu chân Ba)
Để rồi nhà thơ tự giãi bày: Ta ra thành phố xa đồng/ Đốt nhang nhìn khói bay
vòng mà thương/ Nhớ cồn cào nước kinh mương/ Vắng mình rải lá xem đường nước
trôi/ Đã xa thì lỡ xa rồi/ Buồn! Đem thau nước ra soi bóng mình.
Chính quan điểm
sống nó đã tạo nên cốt cách con người thơ và con người trong đời sống thường nhật
của nhà thơ Thu Nguyệt. Con người thơ - và con người trong đời sống
hòa làm một.
Điểm nổi bật và xuyên suốt trong thơ Thu Nguyệt đó chính
là chị hướng đến và tìm đến cõi Thiền. Chùa, Thiền, Thiền sư, tiếng
chuông, Chân Như, Bồ Đề, tu hành, tâm, ngộ, duyên, kiếp, bụi, nhang, đèn, phù
du, vô thường… là những từ thường được chị sử dụng.
Kiếp phù
du, giấc phù hoa
Lấy ai ru
đá giùm ta sau này ?!
Thôi thì đá ngủ cho say
Để rồi thức giấc ngày mai một mình
(Ru đá)
Lời thơ nhẹ nhàng, trôi chảy cùng với dòng cảm xúc vô tận
tạo nên những ấn tượng, dư ba.
- Giá được làm cỏ dại lan man
Vơ vẩn sống, phất phơ đời bên tháp
Vui với nắng sương, mưa trùm gió đập
Lặng lẽ đâm
chồi, ta tự trùng tu
(Tháp Chàm)
- Nẻo tu hành cứ chung chiêng
Bước trầy bước trật… ưu phiền lắc lư
(Thiền giả)
- Gió nương mái cũ đi nhờ
Hiên nhà dấu nước vẫn chờ giọt mưa
(Vẫn y)
Nỗi buồn trong thơ chị bộc lộ nhiều sắc thái, cung bậc
khác nhau nhưng theo chị tất cả đều có nguyên nhân. Chị quan niệm: cuộc sống
con người trên trần thế chỉ là cõi tạm. Chính vì cõi tạm cho nên phải sống đúng
nghĩa là con người, sống trọn vẹn, tha thiết với tình yêu và cuộc đời, sẵn sàng
đón lấy và chấp nhận những buồn - vui như một sự thật hiển nhiên.
- Bước qua không nỗi chữ ngờ
Vô thường áp sát, bến bờ quá xa!
(An)
- Buồn vui như một cái vòng
Điểm đầu tiên, điểm cuối cùng gặp nhau
(Hồn nhiên)
- Bước đi là bỏ lại rồi
Hành trang
khéo giữ một thời cũng phai
Thạch sùng
nát lưỡi ru ai:
Muốn về chốn
cũ phải quay lại mình.
(Bước đi là bỏ lại rồi)
- Muốn được an (alt) cũng bó tay
Đời như kiếp chuột cứ xoay vòng vòng…
(Keyboard thơ)
- Ta
băng qua sự buồn phiền
Hiểu điều
đã mất tự nhiên mãi còn ...
(Sao đổi
ngôi)
Giữa mơ và thực luôn là khoảng cách. Chị nhìn đời bằng
con mắt thực tế nhưng cũng ngập tràn cảm xúc trữ tình, man mác.
- Con quỳ trước Phật từ bi/ Sao lòng vẫn nặng nỗi gì
đa đoan/ Dám mơ đâu chút Niết Bàn/ Chỉ mong ngày động, tâm an một giờ (An).
- Lẽ đời nắng tắt mưa tuôn
Ta không có bóng vẫn còn có ta
Không cần trái, chẳng cần hoa
Xanh xanh vài chiếc lá là có cây
Lộc non
chăm chút tháng ngày
Vậy rồi...
ta
thả lá bay theo mùa.
(Theo mùa)
- Cám ơn sự vật vô thường
Để cho ta
có khi buồn khi vui
Vô thường tất
cả, trừ... tôi
Là chi cũng
mãi khi vui khi buồn!
(Vô thường)
- Rủ sạch mình, em bước qua đêm
Vo viên giấc
mơ ném vào ngọn sóng
Nhón gót đi
giữa biển đời sâu rộng
Xe cát hai
hàng giọt nước mắt sau chân.
(Huyền thoại dã tràng)
Những bài thơ như: Chùa xa, Ước, Ru đá, Miền
không bay… đưa người đọc đến ranh giới giữa thực và ảo, giữa xao động và
bình yên. Đó là lúc thi sĩ đã chạm đến cõi Thiền - thâm nhập vào tận cùng mọi
ngõ ngách của tâm hồn, kiếm tìm bản thể để hiểu mình, hiểu đời và tự giải thoát
cho mình sau bao thăng trầm, nếm trải, bao vận hạn, tai ương…
- Tháng ngày nhẹ hững đi qua
Những điều gần đó rồi xa… thật thường!
(Sẽ đến rồi qua)
- Nghe lòng rung một hồi chuông
Tiếng vang như có lại dường như không
(Chùa xa)
- Gió lùa theo hướng chữ DUYÊN
Ta bay chung để đến miền không bay”.
Thơ lục bát có lẽ là một sở trường của nhà thơ Thu Nguyệt. Lục bát là một trong những thể thơ đậm chất
trữ tình. Nó bắt nguồn từ ca dao, dân ca và thơ lục bát mang cốt cách Việt Nam.
Cuộc sống bình dị của người lao động đi vào ca dao thông qua thể thơ lục bát dễ
đi vào lòng người đọc và có sức lan tỏa. Từ văn học truyền miệng đến văn học viết,
thể thơ này không ngừng được phát triển và đến ngày nay nó vẫn được kế thừa một
cách có sáng tạo, có cách tân trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật.
Khảo sát thơ của
Thu Nguyệt, ta thấy thơ lục bát chiếm số lượng lớn và nó đã góp phần không nhỏ
tạo nên sự thành công của thơ chị. Ở thể thơ này Thu Nguyệt có nhiều bài thơ
hay, hàm súc và ý vị, gây được ấn tượng sâu sắc đối với bạn đọc (Lá giả,
Theo mùa, Gió tan, Miền không bay, Hồn nhiên…).
Đọc bài Lá giả gợi cho người đọc bao câu
hỏi, bao suy ngẫm về con người, cuộc đời. Hóa ra kiếp người cũng chẳng khác chi
kiếp lá (lá giả) - là tạm bợ, là tự “cải trang”. Chỉ có cái thật là bụi
- những hạt bụi đời đeo bám. Chính vì là giả, cho nên chiếc lá giả kia
không thực hiện được điều mà lẽ ra theo quy luật tự nhiên nó phải đạt được. Kết
quả là “Cả đời làm một cuộc rơi không thành”…
Tuy nhiên, Thu
Nguyệt không phải chỉ có kế thừa ca dao, dân ca. Thơ lục bát Thu Nguyệt vẫn
mang hơi thở của thời đại. Nhà thơ đã mang đến cho thơ lục bát một không khí mới,
một sắc thái mới: với những cách tân, sáng tạo độc đáo; tạo nên những vần thơ
tươi mới, rộn ràng mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc. Hạt nhân làm nòng cốt cho
cái mới của Thu Nguyệt là ở cảm xúc, ở dấu ấn cá nhân.
Cùng với tình
yêu, thơ Thu Nguyệt viết về những mối quan hệ khác nhau xung quanh tình yêu, gắn
bó và tiếp nối với tình yêu.
Trót sinh con buổi trăng rằm
Cho nên chữ hiếu như trăng khuyết tròn
Lạy ba lạy má đừng buồn
Xưa nay mưa nước từ nguồn đổ xuôi…
(Lời ru)
Đến với thơ
Thu Nguyệt, người đọc sẽ tìm thấy một sự đằm thắm, dịu dàng và rất nữ tính. Đó là một thế giới tâm hồn có vẻ như khép
kín mà luôn mở rộng, luôn chuyển tiếp, trôi chảy, hướng về ngoại
vật, hướng về mọi người. Niềm vui, nỗi buồn được chị nhìn nhận và hóa giải
nó trong thơ một cách tự nhiên. Đấy cũng là sức hấp dẫn khiến bao trái
tim người đọc cứ mãi say sưa trong vườn thơ của chị
NGUYỄN VĂN HOÀ
Nguồn: Văn Học Quê
NhàVHQN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét