Thứ Ba, 30 tháng 4, 2019

NGHĨ VỀ NHÀ THƠ PHẠM CÔNG THIỆN

Nhà thơ Phạm Công Thiện

Làm thế nào để hình dung về Phạm Công Thiện? Một lần tôi đã tự hỏi mình như thế. Và ngay lập tức trước mắt tôi hiện ra một cặp kính cận dày cộp và chòm tóc trắng phất phơ… Có lẽ, nếu vẽ vài nét trên giấy kiểu tốc họa thì thế như dường là đủ. Không, chưa đủ. Vậy thì nghe thêm giọng nói Nam Bộ đặc biệt của anh. Hay là thêm khuôn mặt tròn, và đôi mắt thơ ngây…

Nhưng tận cùng, Phạm Công Thiện là một nhà thơ và là một thiền sư - và đó là những phẩm chất rất khó hình dung, vì mỗi nhà thơ và mỗi thiền sư đều có những độc đáo riêng. Và tôi tin rằng, khi nào thân xác anh rời khỏi thế giới đời thường này, rất nhiều người sẽ gọi Phạm Công Thiện là một vị Bồ tát, một danh hiệu tôn quý trong Phật giáo và là một hạnh nguyện để chỉ một người tái sinh từ kiếp này sang kiếp khác để giúp cho mọi người hiểu được thật nghĩa của vũ trụ. Trong những năm qua, rất nhiều Tăng Ni, Phật tử đã gọi nhà thơ Bùi Giáng là một vị Bồ tát, và tôi tin là sau này, Phạm Công Thiện cũng sẽ được tôn vinh như thế, bất chấp những đời thường bất toàn mà chúng ta đôi khi gặp nơi anh.

Thực sự, tôi đã nhìn anh như một vị Bồ tát từ những ngày tôi mới lớn, và ngay khi lần đầu đọc cuốn Ý thức mới trong văn nghệ và triết học. Lúc đó, tôi đang học lớp đệ tứ, hay đệ tam ở Chu Văn An, Sài Gòn. Bây giờ gọi là lớp 9 hay lớp 10. Đâu đó, khoảng giữa thập niên 1960. Dù là đọc ngấu nghiến, nhưng một ngày không đủ, và đọc một tuần cũng không đủ. Vì có những dòng tôi phải đọc đi đọc lại, không hoàn toàn vì tính bí hiểm triết lý, mà chỉ vì tính thơ mộng dị thường trong ngòi bút của anh. "Đi cho hết những đêm hoang vu trên mặt đất…". Thế đấy, tôi đã đi như thế từ bốn thập niên trước trên các trang sách của anh.

Tôi đã ngồi ở sân chùa Xá Lợi, dưới các tàng cây ngọc lan và bông sứ lần giở từng trang sách đó. Và rồi lại ngồi trong một quán cà phê cách Trường Chu Văn An vài mươi bước, ngay lối vào Ký túc xá Minh Mạng của các anh chị sinh viên lớn. Không phải chuyện ngồi đọc cho ra vẻ triết gia, mà thực sự vì có những đoạn văn trong cuốn Ý thức mới làm tôi run rẩy cả người. Từng trang một, giữa các dòng chữ của Phạm Công Thiện toát ra một hơi lạnh của vũ trụ vô cùng vô tận. Và tuy là văn xuôi, hầu hết, nhưng thi tính vẫn dày đặc kinh ngạc.

Lúc đó, tôi chưa từng gặp anh, nhưng lại có cảm giác Phạm Công Thiện phải là một cái gì có màu xanh, phải liên hệ tới màu xanh, thí dụ xanh da trời hay xanh lá cây. Không biết tại sao, nhưng trong trí óc tôi lúc đó, là một thiếu niên say mê đọc sách và cứ nghĩ tới triết gia Phạm Công Thiện là thấy hiện lên một màu xanh. Phải màu xanh mới lạnh chứ. Vì từng trang Ý thức mới... đều mang theo hơi lạnh đó. Trong đó, có hơi lạnh Đà Lạt, có sương mù Paris, có ngồi thiền trên đồi vắng, có chất vấn về triết lý với cái búa của Nietzsche, với hiện sinh Camus, và vân vân, và vân vân. Đủ thứ mà bây giờ tôi không thể nhớ hết. Cứ mở trang sách ra, là hơi lạnh của vũ trụ vô cùng vô tận lại toát ra từ các dòng chữ của anh. Bất kể lúc đó, tôi đang ngồi trong sân chùa Xá Lợi, hay vài tuần sau nữa tới la cà tại các quán cà phê trên đường Nguyễn Thiện Thuật, nơi đó có khi tôi ngồi ở quán cà phê Bình Minh và có khi bước sang kế cận ngồi ở quán Hoàng Hôn, và nơi đó cứ mỗi chiều trở về đêm là đèn đường hắt xuống màu vàng mờ nhạt làm tôi cứ ngỡ mình đang ngồi giữa Paris đọc sách.

Mới biết, văn chương mạnh như thế. Sau này, nhiều thập niên sau, khoảng đầu thập niên 1990, được cơ duyên gặp nhà thơ Phạm Công Thiện tại quận Cam, California, tôi ngạc nhiên không hiểu vì sao thời mới lớn mình lại cứ hình dung anh ra một màu xanh. Nhớ lại mới ngạc nhiên. Đúng ra, nếu phải liên kết với màu sắc, nơi anh phải là một màu trắng. Tóc trắng một chòm, kính trắng dày cộp, đôi mắt cực kỳ ngây thơ, khuôn mặt bầu, lại thường mặc áo trắng hay màu sáng. Và toàn thân Phạm Công Thiện toát ra cả một màu trắng hồn nhiên, thơ ngây. Nhưng tới tuổi trung niên rồi, tôi không còn bận tâm chuyện màu sắc nữa, dù là người hay chữ, hay mực, hay giấy. Thêm nữa, khi đọc lại anh, tôi không còn nhiều rung động mạnh mẽ như thời mới lớn, dù là lòng tôn kính anh vẫn không mờ nhạt trong tôi.

Nếu phải giải thích, có lẽ cảm giác màu trắng sau này nhiều phần tôi có cũng từ một bài thơ của Phạm Công Thiện được nhạc sĩ Lê Uyên Phương phổ nhạc. Trong bài thơ, tôi nhớ có những câu dị thường như:

… Mười năm qua gió thổi đồi tây
Tôi long đong theo bóng chim gầy
Một sớm em về ru giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả rừng cây…

Và nhớ nhất là mấy chữ:

… Tôi đứng trên đồi mây trổ bông…

Thực sự, gọi Phạm Công Thiện bằng "anh" là điều không phải lẽ đối với tôi, trên nguyên tắc. Vì tôi đã từng trực tiếp nghe nhiều vị danh tăng gọi Phạm Công Thiện bằng danh xưng "thầy" rất là tôn kính, trong những vị gọi như thế có những Thượng tọa hiện là tác giả và dịch giả nhiều sách về Phật học. Dễ hiểu, Phạm Công Thiện đã từng dạy ở Đại học Vạn Hạnh, nơi đào tạo nhiều thế hệ Tăng Ni và trí thức Phật giáo.

Đứng về mặt đời thường, lý ra tôi cũng phải gọi anh là thầy. Vì thực tế, Phạm Công Thiện còn là thầy của vợ tôi - nàng kể lại rằng trong thập niên 1980 vẫn thường mỗi tuần sang chùa Liên Hoa, trên đường Bixby, thị xã Garden Grove, quận Cam, để nghe thầy Thiện giảng kinh Kim Cang.

"Không hiểu gì cả, nhưng ông Phạm Công Thiện dạy hay hơn mấy thầy khác nhiều, kể cả mấy thầy ở Đại học Vạn Hạnh hồi xưa". Đó là lời nàng kể, khi còn nhắc là năm 1974, nàng đã từng học miệt mài ở Đại học Vạn Hạnh…

Tại sao không hiểu gì hết, mà lại thấy hay? Tôi nghĩ, chỉ có kinh Phật và thơ mới thế thôi.

Như thế, đúng ra tôi phải gọi nhà thơ Phạm Công Thiện bằng thầy. Nhưng cơ duyên lại là, lòng anh Thiện rất mực thoải mái, không nghi lễ. Và tôi lại là bạn thân của các nhà thơ Lê Giang Trần, Phạm Việt Cường… những người thân tình và thường uống rượu với anh. Nói là uống rượu nghe có vẻ trần gian lắm, nhưng phải nhìn thấy Phạm Công Thiện mới thấy là hoàn toàn không có gì gọi là trần gian nữa. Tất cả thế gian quanh anh đều thoạt hiện ra như thơ, như văn, như nhạc, như họa… Và cả đôi khi tôi ghé nhà Lê Giang Trần ở trong một khu mobile home chật chội, u tối, tại Santa Ana và gặp anh Phạm Công Thiện đang ngồi trong nhà Trần với chai rượu trên bàn. Tất cả thế gian đều như mộng, như huyễn, như sương rơi, như điện chớp… Sự hiện diện của anh Phạm Công Thiện như dường để nhắc tới tính vô thường đó.

Khi tôi tới quận Cam năm 1990, anh Phạm Công Thiện đã tạm ngưng các lớp Phật học ở chùa Liên Hoa mấy năm rồi, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn cơ may gặp nhà thơ dị thường này. Và nếu sau này có ai muốn biết về các chuyện đời thường của Phạm Công Thiện, tôi nghĩ rằng nhà thơ Lê Giang Trần có thể kể lại trên cả ngàn trang sách, vì cứ hễ anh Thiện về quận Cam thì chỉ nghe về ở nhà Lê Giang Trần, một nhà thơ cũng thơ mộng lạ lùng và dị thường. Còn thì, khi nghe tin anh đi Úc, khi nghe nói anh lên ngụ ở chùa Diệu Pháp ở Los Angeles, và khi thì nghe đủ thứ địa danh trên địa cầu. Nói thế, không có nghĩa Trần là bạn đời thường của anh Thiện. Thực sự, nhà thơ Lê Giang Trần nhìn nhà thơ Phạm Công Thiện như một vị Bồ tát. Một hóa thân, không thể khác hơn được, trong mắt của Trần.

Người ta không thể hình dung hết những tôn kính mà nhiều người dành cho Phạm Công Thiện. Bất kể là anh đã từng sống rất đời thường, hệt như bao nhiêu người khác giữa phố chợ trần gian. Bất kể là anh cũng viết báo lung tung, cũng một thời tranh luận từ trước 1975 tại Sài Gòn, và rồi lại viết báo tranh luận tại Los Angeles thời 1980 sau này. Và bất kể là anh uống rượu cũng tưng bừng, cũng mấy lần vợ con, cũng thích hút thuốc lá, cũng nhiều thứ rất trần gian… Nên thấy, trong những người tôn kính Phạm Công Thiện có nhiều vị sư, có nhiều nhà thơ, và tôi tin là không thể đếm hết.

Không phải những người đó tôn kính Phạm Công Thiện chỉ vì anh từng là giáo sư Đại học Vạn Hạnh (nơi này có cả trăm giáo sư chứ), hay vì anh làm thơ hay (trước và sau anh cũng có nhiều nhà thơ xuất sắc chứ), hay vì anh đã hùng biện để bảo vệ Phật giáo (đâu có mấy ai nhớ anh đã gây lộn với ai, và về đề tài gì), hay vì anh có thể vừa mới rời một quán nhậu nơi đường Westminster là bước vào ngôi chùa đường Bixby giảng kinh Kim Cang mà vẫn dạy hay hơn tất cả các ông sư trên đời này (có thể, nhưng chi tiết này cần phải kiểm chứng, vì các vị giảng sư chưa chắc đã đồng ý là có ai giảng kinh này hay hơn họ), hay vì anh mỗi lần vào thư viện Mỹ là mượn ra cùng một lúc 30 cuốn về đọc tốc độ còn mau hơn các thiếu niên Sài Gòn đọc truyện võ hiệp Kim Dung (tôi tin có người còn đọc nhanh hơn), và vân vân…

Có thể vì vai trò của Phạm Công Thiện trong sự phát triển Phật giáo cũng lớn lao? Thực ra, có nhiều vị đã đóng góp cho Phật giáo nhiều hơn anh nhiều. Thí dụ, như cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, HT.Minh Châu, HT.Trí Thủ, HT.Thanh Từ, HT.Nhất Hạnh, TT.Tuệ Sỹ, GS.Lê Mạnh Thát… Thực sự, Phạm Công Thiện không viết nhiều về Phật giáo.

Còn nói về các chức vụ chính thức thì Phạm Công Thiện cũng không hơn nhiều vị khác, dù anh từng là "nguyên Giáo sư Triết học Tây phương Viện Đại học Toulouse, Pháp quốc; nguyên Giáo sư Phật giáo Viện College of Buddhist Studies, Los Angeles, Hoa Kỳ; nguyên Giám đốc soạn thảo tất cả chương trình giảng dạy cho tất cả phân khoa Viện Đại học Vạn Hạnh từ năm 1966-1968; nguyên Khoa trưởng Phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của Viện Đại học Vạn Hạnh từ năm 1968-1970; sáng lập viên và nguyên chủ trương biên tập tạp chí Tư Tưởng của Viện Đại học Vạn Hạnh, 1966-1970" (theo phần chú thích trong bài "Hai vị thiền sư," Phạm Công Thiện viết tại California ngày 18.10.1988 về TT.Tuệ Sỹ và TT.Trí Siêu, vị sau này thường dùng tên là GS.Lê Mạnh Thát. Báo Nguồn Sống số 16-17, 1989, San Jose, California).

Vậy mà, cũng như nhà thơ Lê Giang Trần nói trên, tôi tin Phạm Công Thiện phải là một kiểu hóa thân Bồ tát. Nếu Tây Tạng có các hóa thân Đạt lai Lạt ma, Ban thiền Lạt ma, Karmapa, Rinpoche, vân vân… thì Việt Nam mình ngay trong thời này cũng có các hóa thân Bồ tát như các nhà thơ Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện… Bạn không tin? Hãy hỏi các vị sư Sài Gòn ở thế hệ trung niên trở lên, như dường cũng có nhiều vị sư chia sẻ niềm tin như thế.

Còn nói theo kiểu bây giờ, thì Phạm Công Thiện đã xuất hiện trong Phật giáo một cách "rất là ấn tượng." Chuyện Phạm Công Thiện trở thành nhà sư Thích Nguyên Tánh thì cũng có nhiều người biết, và vẫn được truyền tụng hoài. Nhưng nơi đây, để nghe tận nguồn, chúng ta hãy nghe nhà thơ Quách Tấn kể lại, trong "Hồi ký về Thượng tọa Thích Trí Thủ" (http://www.phatviet.com/vanhoc/vh008.htm), khi giới thiệu anh Thiện với Thượng tọa Trí Thủ (lúc giữ chức Giám viện Phật học viện Hải Đức, nơi thi sĩ Quách Tấn dạy các Tăng Ni môn Quốc văn), trích:

Khoảng đầu năm 1964, Phạm Công Thiện bị khủng hoảng tinh thần, ở Mỹ Tho ra Nha Trang an dưỡng. Lên chơi chùa Hải Đức, Thiện ước được sống trong cảnh u tịch trong ít lâu để lấy lại sức khỏe. Tôi liền đến xin Thượng tọa, và tỏ thật rằng Thiện là một thiên tài và là người Cơ Đốc giáo, mọi người trong chùa tỏ ý không bằng lòng. Thượng tọa cười:

"Không hề gì, có bác Quách bảo đảm".

Nhưng để "đề phòng", Thượng tọa cho dọn một căn phòng dưới xưởng làm hương để Thiện ở, trưa chiều lên chùa ăn cơm.

Được nơi ăn chốn ở vừa ý, Thiện bảo tôi:

"Để đền ơn ông, tôi xin hẹn trong sáu tháng sẽ đọc và hiểu được kinh chữ Hán".

Tôi không dám tin, nhưng cũng không dám ngờ.

Ở Trại Thủy, cả ngày Thiện nằm đọc sách. Thỉnh thoảng tôi đến thăm Thiện và Thượng tọa Trí Thủ. Một hôm Thượng tọa bảo tôi:

"Anh chàng có đạo tâm".

Tôi cười thầm trong bụng: "Đạo Thiên Chúa hay đạo Phật".

Ba tháng sau, tôi lên Hải Đức, không thấy Thiện nơi xưởng hương. Hỏi người làm hương trong xưởng cho biết rằng Thượng tọa Trí Thủ đem anh lên ở nơi cốc của Thượng tọa hơn một tháng rồi.

Tôi bèn leo dốc lên cốc: một nhà sư trẻ đang ngồi xếp bằng ngay ngắn, mắt lim dim trên chiếc ghế dài nơi cốc. Nhìn kỹ thì là Phạm Công Thiện! Rõ là một nhà sư 100 phần trăm. Thiện ngồi yên, tôi lẳng lặng đi vào cốc. Thượng tọa Trí Thủ mừng rỡ, muốn gọi Thiện. Tôi "xin đừng". Sau mấy câu hàn ôn như thường lệ, Thượng tọa nói:

"Thiện quy y với tôi rồi, tôi đặt cho pháp danh là Nguyên Tánh".

Tôi không tỏ ý tán thành cũng không tỏ ý phản đối. Đối với Thiện quy y cũng thế mà không quy y vẫn thế.

Mấy tháng sau - tháng 9 năm 1964. Tôi lên Hải Đức một lần nữa. Cốc đóng - người trong chùa cho biết Thượng tọa cùng Thiện vào Sài Gòn, còn lâu mới về. Tôi cảm thấy bùi ngùi như nhớ nhung, như thương tiếc.

Tôi ngẫu chiếm một tuyệt:

Lịu địu
Áo giũ ngày sương gió
Lên chùa thăm cố nhân
Non nghiêng thềm nắng xế
Lịu địu bóng nhàn vân.

Sau nghe tin Thiện dạy học ở Đại học Vạn Hạnh, rồi đi Mỹ, đi Pháp. Còn Thượng tọa Thích Trí Thủ thì trụ trì chùa Già Lam, rồi được phong Hòa thượng, thỉnh thoảng mới về Nha Trang thăm chùa cũ và nghỉ ngơi. Thiện thì từ ngày từ giã Nha Trang, tôi không còn gặp lại…" .

Bây giờ Phạm Công Thiện không viết nhiều như ngày xưa nữa. Những cuốn sách gần đây đa số là viết về Phật A Di Đà và Bồ tát Quan Thế Âm. Từ lâu, anh cũng không làm thơ nhiều nữa. Những tác phẩm thời trẻ của anh, khoảng hơn hai mươi cuốn, còn được quần chúng nhớ đặc biệt là vài cuốn, như: Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma, Tổ sư Thiền tông (1964), Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (1965), Ngày sanh của rắn (1967)… Cuốn được nhớ tên nhất tại hải ngoại của Phạm Công Thiện, có lẽ là cuốn Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất (1988)…

Nhưng đêm hoang vu của anh vẫn chưa hết, cho nên vẫn thấy anh đi liên tục. Để theo dõi bước đi một đoạn đời của anh, hãy trích một chút sau đây từ cuốn Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng của Phạm Công Thiện, xuất bản 1994 tại Los Angeles, từ Lời nói đầu:

"Quyển sách này được viết chậm rãi thong dong từ trên 10 năm nay, từ năm 1983 tại Los Angeles và tại những vùng phụ cận Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Từ năm 1970 cho đến 1983, tôi đã sống ở Do Thái, rồi ở Đức quốc và ở lâu dài tại Pháp quốc; đến năm 1983, qua một cơn chuyển động toàn diện của tâm thức viễn ly, tôi đã trở lại Hoa Kỳ, trở lại thành phố Los Angeles sau một thời gian xa vắng gần 20 năm; từ năm 1983 cho đến năm 1994, trên 11 năm nay, lại qua nhiều cơn chuyển động toàn diện liên tục của tâm thức viễn ly, tôi vẫn tiếp tục sống ở thành phố Los Angeles; sau vài chuyến lui về vùng đồi núi im lặng ở Úc châu, tôi vẫn trở lại thành phố Los Angeles như trở về tập sống hồn nhiên tự tại với những cơn động đất thường xuyên của đời mình…".

Bây giờ Phạm Công Thiện vẫn còn đi. Và đôi khi vẫn còn viết - như một nghiệp tiền định của anh.

Nếu bạn nhớ rằng Phạm Công Thiện sinh năm 1941 thì mới kinh ngạc, khi biết rằng anh in cuốn Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma năm 1964, nghĩa là khi mới 23 tuổi. Nơi đây, chúng ta không nói chuyện cuốn sách anh viết đã có giúp gì cho ai về mặt giác ngộ hay không (chuyện này, khó có thước đo), nhưng chỉ nói về đề tài để khảo sát, suy nghĩ và viết xuống thì đã là một điều hết sức dị thường. Tôi từng đọc rằng khi anh còn ở tuổi vị thành niên, anh đã soạn một cuốn Tự điển Anh ngữ tinh âm, nhưng vì tôi chưa bao giờ đọc cuốn này cho nên không dám bàn. Nhưng ở tuổi 23, mà anh viết sách Thiền tông thì phải có một tâm hồn rất mực thơ mộng, một khát khao trí tuệ rất mực mãnh liệt, dù là, đối với Thiền tông, đúng hay sai và mê hay ngộ cũng là chuyện rất mực khó dò…

Nhưng vì sao một người đời thường lại được cả các Tăng Ni tôn kính? Mà người đời thường này, anh Phạm Công Thiện, lại không hề biết cách kiếm tiền… Tôi nghĩ, nhiều phần là trong các kiếp trước, Phạm Công Thiện đã từng là thầy, từng là bậc tôn túc của các vị Tăng Ni kia, và của nhiều cư sĩ đời thường như tôi…

Và tôi tin rằng, khi Thiền sư Thi sĩ Phạm Công Thiện từ trần, chắc chắn sẽ có rất nhiều người gọi anh là Bồ tát, một danh hiệu rất mực tôn kính trong nhà Phật, chỉ đứng sau danh hiệu Đức Phật. Tại sao như thế? Tôi không thể trả lời chính xác. Nhưng nhà thơ Bùi Giáng đã được tôn xưng là Bồ tát, và tôi tin, chắc chắn rằng Phạm Công Thiện cũng sẽ được tôn xưng như thế. Thêm nữa, kinh Pháp Hoa cũng viết rằng tất cả mọi người đều là Phật - và bây giờ nhiều người trong chúng ta đã quen thuộc với cách Phật giáo Tây Tạng gọi ngài Đạt lai Lạt ma là Bồ tát Quan Thế Âm, gọi ngài Ban thiền Lạt ma là Phật A Di Đà hóa thân…

Để trả lời cho bớt vẻ thần bí hơn, có lẽ nên nói rằng nhà thơ Phạm Công Thiện đã đánh thức được nơi rất nhiều người niềm say đắm với cuộc đời. Bất kể là nhân loại thường trực đối diện với biết bao nhiêu là hố thẳm và hoang vu, chính niềm say đắm này đã và đang dẫn chúng ta đi qua biết bao nhiêu là ngọn đồi mây trắng…

PHAN TẤN HẢI
(Cư sĩ NGUYÊN GIÁC)

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2019

NHÀ THƠ PHAN HOÀNG - SÀI GÒN

Nhà thơ Phan Hoàng tên khai sinh Phan Tấn Hùng tuổi Đinh Mùi, sinh ngày 10-10-1967 phía hữu ngạn cuối dòng sông Đà Rằng (hạ nguồn sông Ba) thuộc thành phố Tuy Hoà. Ông lớn lên, học phổ thông cơ sở ở quê nhà xã Hoà Đồng, học phổ thông trung học ở Trường PTTH Lê Hồng Phong thuộc huyện Tây Hoà, tỉnh Phú Yên. Từ nửa năm lớp 10 bắt đầu thi vào học lớp năng khiếu chuyên văn đầu tiên của tỉnh Phú Khánh (cũ) ở Trường PTTH Nguyễn Huệ (Tuy Hoà), sau đó là Trường PTTH Lý Tự Trọng (Nha Trang). Đây là khoá năng khiếu khai sinh 2 trường chuyên Lê Quý Đôn (Nha Trang) và Lương Văn Chánh (Tuy Hoà) về sau.

Nhà thơ Phan Hoàng tốt nghiệp chuyên ngành ngôn ngữ học Trường đại học Tổng hợp TP.HCM, nay là Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TP.HCM. Từng làm phóng viên - biên tập viên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay, Chủ biên tờ Người Đương Thời (sau đổi tên là Đương Thời).

Đồng thời, Phan Hoàng còn là giảng viên thỉnh giảng báo chí của một số trường đại học.

Nhà thơ Phan Hoàng là Uỷ viên Ban Chấp hành - Trưởng ban Nhà văn trẻ kiêm phụ trách báo chí - truyền thông Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh khoá VI (2010-2015), sáng lập và Chủ biên trang nhavantphcm.com.vn; Phó Chủ tịch - Thường trực Hội kiêm Chủ tịch Hội đồng Thơ - Hội Nhà văn TP.HCM khoá VII (2015-2020), Chủ biên website nhavantphcm.vn - nhavantphcm.com.vn của Hội.

Nhà thơ Phan Hoàng còn là Chủ nhiệm Văn phòng miền Nam báo Văn Nghệ thuộc Hội Nhà văn Việt Nam Từ ngày 01.01.2015.

TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:

Tượng tình (thơ 1995)
- Phỏng vấn Tướng lĩnh Việt Nam (3 tập 1997-2000, tái bản 4 lần)
Phỏng vấn Người Sài Gòn (2 tập 1998-1999)
- Phỏng vấn Người Hà Nội (2 tập 1999-2000, tái bản 2 lần)
Dạ, thưa thầy! (2 tập 2000-2002, tái bản 2 lần)
Hộp đen báo bão (thơ 2002)
Chất vấn thói quen (thơ 2012, tái bản 2015)
Bước gió truyền kỳ (trường ca 2016)
Sài Gòn đất lành chim đậu (ký sự nhân vật tập I-2016, tái bản lần 1 năm 2016, lần 2 năm 2019)
Sài Gòn đất lành chim đậu (ký sự nhân vật tập II-2018, tái bản lần 1 năm 2019)
Sài Gòn đất thiêng khí tụ (ký sự nhân vật 2017, tái bản lần 1 năm 2018)
Sài Gòn ngọt từ da thịt ngọt ra (tản văn 2018)

GIẢI THƯỞNG:

- Giải nhì thơ sinh viên - học sinh Thành phố Hồ Chí Minh năm 1989 với bài Áo trắng trong mơ.
- Giải nhất bút ký báo Khoa Học & Đời Sống năm 1998 với bài Khi nhà thơ làm kinh tế.
- Tặng thưởng báo Văn Nghệ năm 2000
- Giải thưởng thơ tạp chí Văn Nghệ Quân Đội năm 2003-2004 với bài Bước gió truyền kỳ.
- Giải ba cuộc thi thơ nhạc Đây biển Việt Nam với hai bài thơ Mặt trời trong ngôi nhà đầy sóng đầy gió, Gió hợp hôn đất nước, do Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhạc sĩ Việt Nam và báo VietNamNet tổ chức năm 2011-2012.
- Giải thưởng Hội Nhà văn TP.HCM năm 2012 với tập thơ Chất vấn thói quen.
- Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012 cho tập thơ Chất vấn thói quen.
- Giải thưởng VHNT TP.HCM 5 năm lần thứ II (2012-2017) cho trường ca Bước gió truyền kỳ.


BÀI LIÊN QUAN:


NHỮNG HÌNH ẢNH NHÀ THƠ PHAN HOÀNG:
Nhà thơ Phan Hoàng với các bạn thơ trẻ:
Nguyễn Phong Việt, Ngô Thuý Nga, Phạm Phương Lan







Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2019

VĂN CHƯƠNG BÌNH NGUYÊN LỘC - TỪ GÓC NHÌN VĂN HOÁ

Một đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.
Nhà văn Bình Nguyên Lộc

Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ra ở Tân Uyên, Bình Dương, học ở Sài Gòn, năm 1935, chưa xong trung học, về làm công chức kho bạc Thủ Dầu Một, rồi làm kế toán Tổng nha ngân khố Sài Gòn, năm 1945 tham gia kháng chiến, sau đó hồi cư về Lái Thiêu rồi về Sài Gòn viết văn, làm báo. Từ năm 1942, cộng tác với tờ Thanh Niên của Huỳnh Tấn Phát, một tờ báo cổ vũ cho phong trào cách mạng trong thanh niên thời bấy giờ, nhưng phải đến năm 1946, khi định cư ở Sài Gòn, ông mới thật sự định vị với nghề văn, nghề báo và đứng ra thành lập tuần báo Vui Sống và nhà xuất bản Bến Nghé. Số lượng tác phẩm của ông rất đồ sộ, nhưng đã bị thất lạc hoặc chỉ in rải rác trên các báo, chưa có điều kiện sưu tập lại, những tác phẩm được in thành sách chưa được một phần ba, mà đã có 7 công trình sưu tầm chú giải, 1 công trình nghiên cứu dân tộc học, 1 công trình nghiên cứu ngôn ngữ học, 2 tập thơ, 1 tiểu thuyết bằng thơ, 30 tập văn xuôi gồm tuỳ bút, truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết... Ngay cả những tác phẩm đã in thành sách, cũng khó mà thống kê một cách đầy đủ.

Sinh ra trong một gia đình đã có mười đời sống ở Tân Uyên, nhưng trong ý thức văn hoá của Bình Nguyên Lộc luôn hướng về nguồn cội, luôn truy nguyên tìm kiếm nguồn gốc tổ tiên từ đất Bắc di dân vào Nam. Trong các công trình nghiên cứu như Nguồn gốc Mã Lai Á của dân tộc Việt Nam (1971), Lột trần Việt ngữ (1971) cũng như những tập bút ký đầu tay như Hương gió Đồng Nai (viết từ 1935 đến 1942, một vài đoạn đã in báo năm 1943, bản thảo mất khi Pháp chiếm Tân Uyên năm 1945), Phù sa (viết năm 1942, in 1/6 trên báo Thanh Niên năm 1943 với tiêu đề Di dân lập ấp), ông đều tập trung lần tìm lại “từ thuở mang gươm đi mở cõi / nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ). Nếu nhìn một cách khái quát, cảm hứng chủ đạo làm nên thế giới văn chương của ông xuất phát từ những vấn đề cốt tử của truyền thống văn hoá Việt: nguồn gốc, ngôn ngữ, di dân, cõi âm - bốn yếu tố đặc sánh tâm hồn Bình Nguyên Lộc. Ngay trong phạm vi một tác phẩm như tập truyện ngắn Ký thác (1960), những vấn đề trên cũng lần lượt hiện ra thông qua đề tài, tư tưởng - chủ đề và thế giới hình tượng của tác phẩm: Ăn cơm chưa, Pì Pế Hán (nguồn gốc), Lầu ba phòng bảy, Đôi bạn mắc hoa vông (ngôn ngữ), Rừng mắm, Rung cây dừa (di dân), Ba con cáo, Ba ngôi sao giữa trời, Hồn ma cũ (cõi âm)...

Sáng tác trong thời kỳ có sự gắn bó mật thiết giữa văn chương và báo chí, nên tiểu thuyết của ông hầu hết là tiểu thuyết feuilleton (tiểu thuyết dài kỳ in báo, tiểu thuyết tân văn), một loại tiểu thuyết ra đời trong cơn lốc của báo in ở các nước phương Tây và đã từng tạo nên các tên tuổi lừng lẫy như C. Dickens, W.  Thackeray, A. Dumas và cả Kim Dung nữa. Lối viết của Bình Nguyên Lộc gần giống với tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn, từ kết cấu, tâm lý nhân vật đến giọng điệu trần thuật, miêu tả và nhân vật. Đò dọc (1959), Hoa hậu Bồ Đào (1963), Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương (1963)... là những tiểu thuyết tâm lý thành công của ông, nhất là với Đò dọc, ông đã được Giải thưởng văn chương toàn quốc (Sài Gòn) năm 1960, in dấu một phong cách tiểu thuyết đặc sắc. Cuốn tiểu thuyết nói về cuộc sống di dân ngược xuôi như những chuyến đò dọc của gia đình ông bà Nam Thành cùng bốn cô con gái, từ Bạc Liêu thuộc miền Tây Nam Bộ lên Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn trôi dạt về miệt Thủ Đức thuộc miền Đông. Đó là lộ trình của người thị dân, người dân kẻ chợ về vườn, sống lạc lõng, cô đơn ở vùng nửa quê nửa tỉnh, ngược lại so với lộ trình của cô Hiếu (trong Hoa hậu Bồ Đào), một người con gái quê có nhan sắc lên thành phố, phải chống chọi với bao nhiêu cạm bẫy, cám dỗ của lối sống thị thành. Bốn cô con gái Hương, Hồng, Hoa, Quá không chỉ cô đơn mà còn cô độc, họ cấu xé nhau bởi sự xuất hiện của một chàng hoạ sĩ. Tiểu thuyết này cũng chưa thoát khỏi truyền thống kết thúc có hậu, trừ cô Hương chị cả yên phận gái già, còn ba cô em đều đã lấy được chồng. Nhưng điều người đọc nhận ra qua bút pháp phân tích tâm lý của tác giả là nỗi cô đơn của phận người, những đố kỵ, ghen tỵ trong cuộc sống gia đình, cuộc sống lạc lõng của người dân ngụ cư. Cuốn tiểu thuyết ra đời sau thời điểm có cuộc di cư của một bộ phận nhân dân từ Bắc vào sau năm 1954, phải đối mặt với không ít những kỳ thị và khác biệt trong đời sống cộng đồng. Nhìn chung, là tiểu thuyết feuilleton, luôn phải phụ thuộc vào số trang, số chữ của từng kỳ ra báo, thậm chí phụ thuộc cả vào việc coi văn chương chỉ là phương tiện kiếm sống của người làm báo (có ngày ông phải viết đến 11 đoạn truyện khác nhau cho 11 tờ báo, viết mà không có thời gian đọc lại), nên không tránh khỏi sự trùng lặp, cố ý rút ngắn hoặc kéo dài, ảnh hưởng đến chất lượng nghệ thuật.

Đặc sắc văn xuôi Bình Nguyên Lộc là ở truyện ngắn và tuỳ bút, cả những cái đã in thành sách và những cái chỉ mới in trên các báo, con số có thể lên đến vài nghìn tác phẩm, nhưng trong đó chỉ có khoảng hơn năm mươi tác phẩm thật hay, nằm rải rác trong các tập như Nhốt gió (1950), Ký thác (1960), Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (1966), Tình đất (1966), Thầm lặng (1967), Cuống rún chưa lìa (1969)... Một thằng bé con có khát vọng “nhốt gió” lại, để gió đừng bay đi và cuối cùng đành phải thoả hiệp đùa chơi với gió. Chưa nói đến ý nghĩa khách quan toát ra từ hình tượng, chỉ cần nghĩ ra được hình tượng đã lạ, đã hết sức tân kỳ. Ký thác được nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh tái bản lần gần đây nhất năm 2001, gồm 16 truyện, trong đó có những truyện ngắn hay như Rừng mắm, Ba con cáo, Đôi bạn mắc hoa vông... tiêu biểu cho nghệ thuật truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc. Thằng Cộc theo ông và cha mẹ đến rừng nước mặn mà gia đình nó đặt tên là Ô Heo, chiến đấu với thiên nhiên, lấn biển để giành đất sống, gợi nhớ đến cuộc chiến đấu đơn độc giữa ngư ông và biển cả. Ba đời nhà thằng Cộc tượng trưng cho cuộc di dân của người Việt từ Bắc xuống Nam từ thuở xa xưa trong trạng thái “thềm người” đến cháy bỏng. Nếu ở Rừng mắm, ông đem đối sánh bản chất người của con người với thiên nhiên, với đất và nước, thì ở Ba con cáo ông phân biệt với bản năng động vật, là cuộc tranh giành sự sống giữa người và vật, trong vật vã đói khát giữa một bãi tha ma, cuối cùng con người cũng chiến thắng vế vật chất, nhưng lại trĩu nặng những di chứng tinh thần: “Hồ ly rùng mình một cái, không phải vì lạnh, cũng không phải vì sợ ma, mà vì chị bỗng sợ hãi chính mình, sợ hãi con người đã vơi cạn hết chất người.” Cuống rún chưa lìa là sự tiếp tục Ký thác, lần tái bản gần đây nhất tại California năm 1987, trước khi tác giả mất ít lâu, được gộp chung cả tập Tình đất vào thành 12 truyện và bài thơ Dâng má thương, thể hiện tấm lòng của ông hướng về thổ ngơi, về đất nước như cuống rún chưa lìa lòng mẹ. Nếu tiểu thuyết Đò dọc bóc trần tâm trạng của những người di cư, một trong những phương thức di dân, thì Cuống rún chưa lìalại hướng về cõi âm, là lương tâm của người Việt hướng về hương hồn của những tộc người xa xưa đã phải “điêu tàn”. Những truyện hay trong tập như Bà Mọi hú, Câu dầm, Bám níu, Phân nửa con người, Mấy vụ quật mồ bí mật... từ không khí liêu trai, thoát thai từ đất, đá, nước, cây thành sự sống con người. Một bà Mọi xuất thân từ miền sơn cước, quyết giữ đất, chống lại những người di dân. Một ông già câu cá đã từng xuống cõi âm trở về, không dám câu cá ở sông nữa, mà chỉ câu trộm cá ở ruộng trong mưa dầm gió bấc. Qua trang văn, đất như cỗi rẽ để con người bám vào, còn nước nuôi người sinh sản, lớn khôn.

Với Những bước chân lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc, ông truy tìm nguồn gốc, dĩ vãng của Sài Gòn, một thành phố mới, còn ít tuổi, chưa kịp có dĩ vãng rêu phong. “Sài Gòn không có được một quá khứ lịch sử vang dội như Thăng Long, đài các như Huế, cho nên Bình Nguyên Lộc đã tạo cho Sài Gòn một đời sống trực tiếp, dân dã, dính liền với cõi âm, một cách nối dài lịch sử Sài Gòn với quá khứ bình dân của những người chết không tên tuổi” (T. Khuê, Tự điển văn học, bộ mới, Nxb thế giới, 2005, tr. 133), khi tình cờ lang thang trên đường phố, tác giả phát hiện ra Sài Gòn được “xây dựng trên một bãi tha ma minh mông”, cảm thấy được cái “thổ ngơi thơm phức hồn ma cũ”. Cùng lần lại lối xưa người cũ, nhưng Sài Gòn năm xưa (1962) và Sài Gòn tạp pín lù (1992) của Vương Hồng Sển mang đậm chất hồi ức kỷ niệm, Gia Định xưa (1984) và Người Sài Gòn (1994) của Sơn Nam mang đậm chất khảo cứu, còn những “trang viết lang thang” của ông là những tuỳ bút vừa phóng túng tài hoa, vừa phong trần nghệ sĩ. Cuộc truy nguyên nguồn cội của ông không chỉ bó gọn trong phạm vi Sài Gòn mà còn mở rộng ra phạm vi cả nước, cả dân tộc, không chỉ bằng tư duy hình tượng mà còn cả tư duy khoa học chặt chẽ, logic như ở các công trình Nguồn gốc Mã Lai Á của dân tộc Việt Nam và Lột trần Việt ngữ... những cuốn sách mà cho đến nay, ai nghiên cứu về các vấn đề trên đều phải lật lại để tra cứu.

Khác với các tác giả sinh ra từ đất Bắc, nhưng toàn bộ hành trạng cuộc đời và văn nghiệp đều gắn liền với phương Nam như Lê Văn Trương, Nguyễn Hiến Lê, nhưng đồng thời cũng khác với các nhà văn sinh ra ở Nam Bộ nhưng hoàn toàn viết theo lối Bắc như Đông Hồ và cũng không giữ nguyên đậm đặc chất liệu Nam Bộ như Hồ Biểu Chánh, văn chương Bình Nguyên Lộc thể hiện sự giao lưu văn hoá, đứng ở miền giao thoa văn hoá Bắc – Nam từ trong tâm thức, cách nhìn và nhất là giọng điệu văn chương. Khi sử dụng một từ ngữ có tính chất đặc thù của phương ngữ miền Nam, ông thường tìm cách giải thích, truy nguyên nguồn gốc của nó ở ngoài Bắc thế nào, có khi còn phê bình là nơi nào dùng chính xác, hợp lý hơn, không chỉ trong văn phong khoa học, trong giọng điệu trần thuật hay miêu tả, mà còn thông qua ngôn ngữ nhân vật: “Con chàng hiu má à! Người Bắc thì kêu nó là con chẫu chuộc nghe ít ghê hơn tên của ta. Tiếng chàng hiu gợi hình dáng một con người mà là người ma, ghê quá.” (Đò dọc).

Nói nhà văn là nhà nghệ thuật ngôn từ đối với Bình Nguyên Lộc còn chưa đủ, mà phải nói ông là nhà ảo thuật về ngôn từ, khi ông luôn có lối so sánh với những hình dung từ chính xác, đắc địa, hiện đại và tài hoa: “Là con trai tôi không khóc được. Nhưng lòng tôi đã tơi bời như áo mục phơi dưới gió to” (Ăn cơm chưa); hoặc “Vịnh Thái Lan, phần thuộc hải phận Việt Nam, chi chít những đảo là đảo, như có đứa trẻ tinh nghịch nào hốt đá cuội mà vứt rải trên một cái ao con” (Rung cây dừa); hoặc đoạn mở đầu truyện ngắn Rừng mắm, ông tả tâm trạng thằng Cộc dõi theo con chim bói cá: “Chim đang bay lượn bỗng đứng khựng lại, khiến thằng Cộc thích chí hết sức. Nó theo dõi con chim thầy bói ấy từ nãy đến giờ, chờ đợi cái phút này đây. Thật là huyền diệu, sự đứng yên được một chỗ trên không trung, trông như là chim ai treo phơi khô ngoài sân nhà. Chim thầy bói nghiên đầu dòm xuống mặt rạch giây lát rồi như bị đứt dây treo, nó rơi xuống nước mau lẹ như một hòn đá nặng. Vừa đụng nước nó lại bị bắn tung trở lên như một cục cao su bị tưng, mỏ ngậm một con cá nhỏ”. Sức nặng trang văn của ông không chỉ ở vốn tri thức về văn hoá, mà còn ở sự kết hợp hài hoà giữa giọng kể và giọng tả, vừa thể hiện sự bộc trực của miệt quê nơi ông sáng tác, vừa phóng túng, mượt mà của một ngôn ngữ chuẩn mực phổ thông.

Một sự trùng hợp ngẫu nhiên như định mệnh là ông sinh năm 1914 và mất năm 1987 đều cùng ngày, cùng tháng, đó là ngày Bảy tháng Ba. Vậy là, tròn 73 năm ông sống và lao động miệt mài, trong đó có những năm sung sức, ngoài việc hàng ngày ông phải nộp hàng chục bài cho các báo, ông in hàng chục tập sách gồm nhiều thể loại trong cùng một năm: Nhện chờ mối ai, Xô ngã bức tường rêu, Bí mật của nàng, Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương, Bóng ai ngoài song cửa, Hoa hậu Bồ Đào, Mối tình cuối cùng, Nửa đêm trăng sụp, Tâm trạng hồng,... gộp lại có đến mấy nghìn trang sách đều được in ra trong năm 1963! Lần lại sự nghiệp văn chương đồ sộ của ông, mà trong đó ngồn ngộn những tri thức văn hoá lịch sử, người đọc ngày nay không chỉ thấy được sức lao động cật lực của một nhà văn, một nhà văn hoá bậc thầy, mà còn có thể hình dung ra được cuộc sống của những người theo nghề văn, nghiệp báo ở miền Nam trước đây.

PHẠM PHÚ PHONG
Nguồn: SÔNG HƯƠNG 223

VÀI CẢM NGHĨ VỀ ĐÔNG HỒ

Nếu công trình nghiên cứu của Đông Hồ có giá trị khiêm nhường thì trái lại thơ của ông trong Nam Phong ngày trước là cả một sự đóng góp lớn lao vào văn học Việt. Chính những bài thơ này đã khơi mào trào lưu lãng mạn sau này…
Nhà thơ Đông Hồ

1. Có những người ở cạnh nhà mình một thời gian dài mà ta không có duyên để được chuyện trò. Có những người ta biết tiếng nhiều, nếu được đối mặt là một hân hạnh vậy mà ta nay lần mai lữa để cho cơ hội đi qua. Tôi tiếc thương cho thi sĩ Đông Hồ khi nghe ông mất, tôi tiếc cho mình đã thiếu một điều trong đời là hội kiến với nhà thơ nổi tiếng này khi ông còn sinh thời.

Độ bốn mươi năm trước, lúc còn là một học sinh bé nhỏ ở trường tiểu học Trương Minh Ký Sài Gòn (sau này là trường Nguyễn Thái Học) ở đường Kitchener tôi thường tò mò vào nhà sách Yiểm-Yiểm thư trang đối diện với trường để đọc ké những cuốn sách lúc đó tôi thích mà không có tiền mua, mấy tập truyện của Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh, cuốn Truyện Cổ Việt Nam của Giáo sư Nguyễn Duy Oanh, cuốn Việt Nam Văn hóa Sử cương của Đào Duy Anh…, một ông già mặc áo đài khăn đóng rất ư cổ kính loáng thoáng trong căn phòng chưng nhiều liễn, câu đối viết chữ Việt bằng bút lông luôn luôn là kích thích tố mời gọi tôi với một tâm trạng vừa kính sợ vừa muốn ngắm nhìn. Tôi như quen với hình ảnh ông trong hai năm ở trường tiểu học nọ và cũng làm quen với nền văn chương tranh đấu chống Pháp trong khoảng thời gian này. Sau này, khi thi đậu vào trường Pétrus Ký, biết về nhà thơ Đông Hồ, đã có bài trong Nam Phong tạp chí, được đọc bài thơ Khóc Vợ, được thưởng thức bài thơ Mua Áo của ông, trong đó tình cảm, tính chất lãng mạn tràn đầy trong từng chữ một khiến tôi một thời muốn được ông vuốt đầu chỉ cách làm thơ! Nhưng khi đọc bài thơ của ông trong tuyển tập Thơ Mùa Giải Phóng, do nhà văn Sơn Khanh lúc đó thực hiện, ký Đại Ẩn Am, một đứa bạn lớn tuổi, cùng trường mách, tôi mất đi tình cảm kính phục, gần gũi ngày trước. Có lẽ tôi đã biến chuyển theo thời gian, có thể bài thơ của ông không làm rung động được hồn tôi bằng bài thơ của bà Mộng Tuyết cùng tập, bài thơ Chữ Thập Hồng, ký dưới bút hiệu Bân Bân nữ sĩ hay Tha La của Vũ Anh Khanh hoặc Vọng Hướng Sao Rơi của Hoàng Tố Nguyên… Có thể thơ xa gần tranh đấu, mặc dầu chỉ là hơi hướm của thời thế, không phù hợp với tâm hồn họ Lâm, có thể mức cảm chưa đến, nhà thơ chưa đưa người đọc đến sự rung động sâu xa, có thể có những lý do khác… Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa biết rằng, suốt trong khoảng thời gian Trung học và Đại học, tôi gần như quên đi nhà thơ hiền hòa của xứ Hà Tiên này. Ông hiện diện, ông hoạt động văn hóa, ông làm thơ, viết sách, tôi chỉ loáng thoáng nhớ đến hình ảnh ông ở nhà sách Yiểm-Yiểm thư trang và bài thơ Mua Áo, nhưng không bao giờ có ý muốn đến gặp…

2. Năm nào đó, khoảng 70-72, Trung tâm Văn bút Việt Nam có mở một cuộc diễn thuyết thật long trọng về thi sĩ Đông Hồ ở trụ sở đường Đoàn Thị Điểm, diễn giả gồm tất cả tám người, có L.M Thanh Lãng, Giáo sư Phạm Việt Tuyền, thi sĩ Vũ Hoàng Chương, kịch tác gia Vi Huyền Đắc… mấy vị nữa và tôi, lúc đó đang phụ trách vài giảng khóa ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Tôi nhập đề bằng cách nhắc lại Đông Hồ được biết đến như một người làm thơ khóc vợ trên báo Nam Phong, như một người viết biên khảo về chuyện cầu cơ, nhưng ít ai nhắc đến Đông Hồ như người đã công bố với học giới lần đầu tiên tác phẩm của một tác gia thật quan trọng của nền văn học Đàng trong lúc Trịnh Nguyễn phân tranh là Nguyễn Hữu Hào với cuốn truyện dài Song Tinh Bất Dạ. Cho đến ngày nay, Song Tinh Bất Dạ xuất hiện trước Đoạn Trường Tân Thanh cả thế kỷ ở Đàng trong – có nhiều câu thấy ngay là người sau sửa lại theo Đoạn Trường Tân Thanh. Mất đi điểm căn bản nguyên tác để xác định giá trị văn chương, người sau nếu muốn nghiên cứu cũng chỉ có thể nhận định trên các khía cạnh khác văn chương, ở ngoài văn chương, Song Tinh Bất Dạ vì vậy đối với tôi như một cô gái đẹp có cái cằm sửa, mũi độn, mắt cắt, đẹp thì đẹp đấy, nhưng tính cách tự nhiên nguyên thủy đã không còn! Trong quyển Văn học Nam Hà tôi né tránh nói đến kỹ thuật của Nguyễn Hữu Hào cũng vì lẽ đó. Buổi diễn thuyết tương đối thành công, một phần vì nhiều diễn giả, mỗi người nhìn nhà thơ trên một mặt, nói về điều chuyên môn của mình, phần khác thi sĩ Đông Hồ có một số đông sinh viên và nhiều người ngưỡng mộ. Tiếc rằng vấn đề tôi đưa ra thuộc chuyện cần phải thảo luận, người có thẩm quyền nhất – để trả lời đã hạc nội mấy ngàn, điều tôi nói đã không được một tiếng vọng trở lại nào từ đó đến nay. Quyển Song Tinh Bất Dạ, do thi sĩ Đông Hồ công bố vĩnh viễn không ai có thể xác định được độ chính xác đến mức nào, tôi cho rằng đó là một mất mát lớn của gia tài văn hóa Việt, một lần nữa tôi lại tiếc và tự trách, nếu trước kia đừng chểnh mảng, tìm một dịp hội kiến, biết đâu tôi đã có dịp bàn thảo vấn đề này với thi sĩ, có thể thi sĩ đã soi sáng cho tôi thêm ngoài điều ông đã công bố trong lời dẫn nhập khi cho in Song Tinh Bất Dạ.

Tuổi trẻ nhiều lầm lỗi, khi nghĩ đến vấn đề này, tôi luôn luôn cho rằng phần lầm lỗi phân chia người quá khứ và người thời đại của tôi lúc đó là một lầm lẫn đáng chê trách. Giờ đây, trên đất nước người, sinh sống bằng một nghề xa lạ với văn chương Việt, ở một vùng không thể thấy được tài liệu nghiên cứu của Việt Nam, bài này được viết ra như một tiếng thở dài, thở dài cho mình một thời ham vui đã không biết áp dụng câu tục ngữ “ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ” trong việc nghiên cứu văn học, con đường dài phải đi tôi tự chọn như một trả nợ cho sách vở với người xưa…

3. Khoảng giữa năm 78, tôi gặp bà Mộng Tuyết một vài lần, lúc tại tư thất của bà gần Lăng Cha Cả, lúc tại trụ sở Ủy ban Khoa học Xã hội Miền Nam, chỗ Trung tâm Ngữ Học Mùa Hè cũ, dường như bà đến để bán một số sách quý do Đông Hồ để lại. Vợ một nhà thơ, chính mình đã từng làm thơ và viết lách, việc bán sách kỷ niệm của người chồng quá vãng của bà khiến tôi nghĩ rằng bà Mộng Tuyết cũng như một mình đang sửa soạn cho một cuộc đi xa khỏi đất nước đang xảy ra quá nhiều điều nghịch lý. Tôi từng trầm trồ những quyển sách đóng bìa rất đẹp hầu hết đều có chữ ký tặng của tác giả, giá ai đó biết quý sách và quyết tâm ở lại mua hết tủ sách đó ít ra chúng cũng về một mối hơn là về tay nhà nước rồi sẽ tản mát đi, mỗi người đem một quyển về làm của riêng không còn ai thấy để mà đọc mà nghiên cứu! Tôi bóng gió nói ý nghĩ của mình, bà chỉ cười.

Có lần bà cho tôi xem bài viết của bà trên tờ Nghiên Cứu Văn Học xuất bản ở Hà Nội, số đặc biệt do các cây bút nữ lưu viết bài khảo cứu. Tôi đã đọc bài đó, không một chút gì đề cao chế độ, không viết theo lăng kính và phương pháp của người thắng trận. Tôi kính phục thái độ của bà và thấy dường như họ có chiến dịch mời gọi những người có thế giá về với họ. Vấn đề là những người này có giữ được tính cách độc lập của mình và có tự trọng hay không, một hai bài viết trên các báo nhà nước về vấn đề chuyên môn, được viết bởi một người biết giữ phẩm giá, vẫn là một điều không có gì đáng chê trách. Tôi thấy buồn buồn – thêm một chút khinh dễ, nghĩ đến một người dạy cùng trường, vào trường được độ một năm trước ngày Miền Nam bị cưỡng chiếm đã cậy cục để được đăng một bài trên tạp chí Nghiên Cứu Văn Học và anh ta tỏ ra hãnh diện khoe về những điều hai bên “trao đổi” với nhau trước khi bài được chấp thuận đăng, ác hại thay những việc trao đổi này không thuộc trên lãnh vực chuyên môn mà là phương pháp và lập trường! Bi hài ở chỗ người ta có thể chấp nhận hi sinh lòng tự trọng của mình để đổi lấy cái phao cứu nguy sự bất ổn của cuộc sống, trong khi cái phao đó thật nhiều khi tỏ rằng không hữu hiệu… Bà Mộng Tuyết cũng cho tôi xem tập thơ của bà in thật đẹp do nhà in của Thi Vũ in ở Paris khoảng 1973 – dường như lúc bà sang Pháp – tập thơ trình bày thật đẹp, thật sang trọng. “Gầy Hoa Cúc” tôi ước ao mình có được tập thơ in đẹp như vậy của mình. Cho đến nay, cả chục năm trời qua tôi vẫn chưa có một tập thơ nào, huống chi một tập thơ in đẹp! Đời biến chuyển, thi hứng cạn, việc nghiên cứu đi vào ngã bí tài liệu, áo cơm… tôi chỉ còn trả nợ sách vở bằng một số truyện ngắn mà chính mình cũng không mấy gì hài lòng…

Năm 1980, sau vài tháng ở Mỹ, tôi được tin qua nhà thơ Phương Hà rằng nữ sĩ Mộng Tuyết đã sang được Pháp. Mừng, thêm một người Việt nữa được thoát khỏi vòng vây hãm... Cảm giác đó sau này tôi cũng có tương tợ khi được tin những người Việt khác tôi chưa từng hân hạnh gặp như Nguyễn Thị Vinh, Đặng Thị Thanh Phương, Tạ Ty, Thế Uyên, Luân Hoán… đến được xứ tự do, vấn đề đầu tiên là có tự do, chuyện viết lách rồi theo ngày tháng người cầm viết sẽ có lúc cầm viết trở lại. Sự thôi thúc bên trong luôn luôn là một thôi thúc khôn cưỡng. Cơm áo, sức khỏe, hoàn cảnh chỉ ngăn trở một thời gian, cái nghiệp không phải dễ dàng thoát ra được. Mộng Tuyết chưa cầm bút lại nhưng tôi biết chắc chắn một ngày nào đó bà lại sẽ ngồi vào bàn viết, với bút hiệu mới có thể, nhưng chắc chắn rằng bà sẽ không đứng ngoài đám đông cầm viết kiêu dũng hiện nay.

Lần đầu tiên có một quyển sách văn học sử nghiên cứu về một địa phương, quyển Văn Học Hà Tiên của Giáo sư Đông Hồ được học giới chú ý vì nhiều tài liệu mới một phần, vì uy tín của tác giả một phần. Tuy nhiên vấn đề quan trọng nằm ở chỗ địa phương Hà Tiên phải chăng là chỗ có truyền thống văn học, hay chỉ nở rộ thời Mạc Thiên Tích thôi? Vả chăng một mình họ Mạc không thể tạo nên một vùng văn học vì những thi sĩ ở trong thi đàn của vị vương giả nầy hầu như tất cả chỉ ghé Phương Thành một thời gian ngắn rồi trở về lại Trung Quốc, không có liên hệ gì với người dân Hà Tiên cũng như không tạo một ảnh hưởng gì lên người dân Hà Tiên về văn học cũng như xã hội. Ta nghĩ sao nếu một người nào đó viết Văn Học Cố Đô chỉ để nói thơ Tùng Thiện Vương họa với Tuy Lúy Vương và các Vương tôn Công tử đồng thời? Dầu không đủ sức thuyết phục, quyển Văn Học Hà Tiên, theo tôi cũng đã mở đường cho những công trình đi sau, như Văn Học Miền Nam của Phạm Việt Tuyền, Văn Học Nam Hà của Nguyễn Văn Sâm sau đó. Ở những điều suy nghĩ của tác giả và ở tài liệu ông công bố. Tôi cho rằng linh mục Thanh Lãng đã có lý để mời thi sĩ Đông Hồ phụ trách môn này ở trường Đại học Văn Khoa độ nọ.

Nếu công trình nghiên cứu của Đông Hồ có giá trị khiêm nhường thì trái lại thơ của ông trong Nam Phong ngày trước là cả một sự đóng góp lớn lao vào văn học Việt. Chính những bài thơ này đã khơi mào trào lưu lãng mạn sau này. Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Tình Già của Phan Khôi bắt rễ sâu xa từ đây để rồi nở rộ bằng giai đoạn văn chương lãng mạn tiền chiến… Cũng có thể nói thêm rằng chính cuộc sống của Đông Hồ là cuộc sống của người thơ ảnh hưởng Nho Giáo, xa biến động của xã hội, bình tĩnh trước cuộc đời, thân thiết với bạn bè (trường hợp thi sĩ Vũ Hoàng Chương), từ tốn trong cách xử thế tiếp vật… Đông Hồ đã có một thời gian sống bên cạnh văn chương, thơ của ông không theo kịp trào lưu, ông lạc lõng giữa những người mới như Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, ông như Nhất Linh của thời Văn Hóa Ngày Nay, chỉ còn là cái lọ cổ đặt ngoài sau cái bình mới Sáng Tạo, Hiện Đại, nhưng điều đó không phải lỗi ở Đông Hồ hay Nhất Linh mà chính vì bước tiến của Văn Học Việt Nam quá mau sau thế chiến. Biết bao nhiêu nhà văn nhà thơ lớp trước cũng đã lâm vào cảnh tương tợ, một Tương Phố nằm im trên Đà Lạt, một Nguyễn Đức Quỳnh chỉ còn thuyết mà khả năng sáng tác không còn, một Khuông Việt bặt im, một Thẩm Thệ Hà loay hoay với mấy cuốn sách giáo khoa Trung học và vài cuốn tiểu thuyết mỏng không tạo được tiếng vang nào. Cuộc sống của người văn chương cần để lại một cái gì đó cho hậu thế. Ngày nay ta nhắc đến Đông Hồ như một người đã đi vào thơ Việt thật sớm, đã nói về tình cảm mình trong những năm mà con tim còn bị bắt buộc phải giấu kín tiếng lòng. Ông đã nghiễm nhiên làm chuyện cách mạng tình cảm và đã được tiếp đón như kẻ tiên phong. Công của Đông Hồ ở đó, điểm đặc biệt của Đông Hồ cũng ở đó.

NGUYỄN VĂN SÂM (1995)
Nguồn: namkyluctinh.com

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2019

NHÀ THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU - HÀ NỘI

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều tuổi Đinh Dậu, sinh ngày 13 tháng 02 năm 1957 tại làng Chùa, xã Sơn Công, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây, nay thuộc Hà Nội; hiện sống tại thành phố Hà Đông. Tốt nghiệp đại học ở Cuba.

Ông từng làm việc tại tuần báo Văn Nghệ, Tuần Việt Nam (tuanvietnam.vn thuộc báo điện tử Vietnamnet.vn), Uỷ viên Hội đồng thơ và hiện đang là Phó Chủ tịch Hội, Trưởng ban Sáng tác, Giám đốc Trung tâm Dịch thuật văn học Hội Nhà văn Việt Nam khoá VII - IX, Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội Nhà văn Á - Phi và Mỹ La Tinh.

Từ ngày 10.5.2017, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều còn được bổ nhiệm làm Giám đốc kiêm Tổng biên tập NXB Hội Nhà văn.

Bắt đầu viết văn từ năm 1983, Nguyễn Quang Thiều là cây bút đa năng và sung sức, xuất hiện thường xuyên trên văn đàn, báo chí. Ông nhanh chóng nổi lên như một nhà thơ trẻ cách tân hàng đầu thế hệ mình. Bên cạnh thơ, Nguyễn Quang Thiều cũng ghi dấu ấn về văn xuôi, tiểu luận, dịch thuật và góp phần quan trọng quảng bá văn học Việt Nam ra thế giới.

TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:

Thơ:

1. Ngôi nhà tuổi 17, 1990
2. Sự mất ngủ của lửa, 1992, tái bản 2016
3. Những người đàn bà ghánh nước sông, 1995
4. Những người lính của làng, 1996
5. Thơ Nguyễn Quang Thiều, 1996
6. Nhịp điệu châu thổ mới, 1997
7. Bài ca những con chim đêm, 1999
8. Thơ tuyển cho thiếu nhi, 2004
9. Cây ánh sang, 2009
10. Châu thổ, 2010

Văn xuôi:

1. Vòng nguyệt quế cô đơn, 1991
2. Cỏ hoang, tiểu thuyết, 1992
3. Tiếng gọi tình yêu, 1993
4. Kẻ ám sát cánh đồng, 1995
5. Người đàn bà tóc trắng, truyện ngắn, 1996
6. Đứa con của hai dòng họ, truyện ngắn, 1997
7. Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều, 1998
8. Người cha, truyện thiếu nhi, 1998
9. Bí mật hồ cá thần, truyện thiếu nhi, 1998
10. Con quỷ gỗ, truyện thiếu nhi, 2000
11. Ngọn núi bà già mù, truyện thiếu nhi, 2001
12. Người nhìn thấy trăng thật, truyện ngắn, 2003
13. Người, chân dung văn học, 2008
14. Ba người, chân dung văn học (in chung), 2009
15. Có một kẻ rời bỏ thành phố, tiểu luận, 2010
16. Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng, tạp văn, 2016
17. Mùi ký ức, tuỳ bút, 2017

Sách dịch:

1. Khoảng thời gian không ngủ, thơ Mỹ, 1997
2. Chó hoàng Đingô, truyện ngắn Australia, 1995
3. Năm nhà thơ hiện đại Hàn Quốc, 2002

Ngoài ra, Nguyễn Quang Thiều còn viết kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh và và hơn 500 bài báo, bút ký, ghi chép, tiểu luận… với các bút danh như Trực Ngôn, Vương Thảo, Hạnh Nguyên, Hoàng Lê…

Thơ và truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều đã được in thành sách và được giới thiệu trên các tạp chí và báo ở các nước như Mỹ, Pháp, Nga, Úc, Ireland, Nhật, Hàn Quốc, Venezuela, Colombia, Na Uy, Thuỵ Điển, Malaysia, Thái Lan…

GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC:

- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 cho tập thơ Sự mất ngủ của lửa.
- Giải thưởng Final cho tập thơ The Women Carry River Water của The National Literary Translators Association of America năm 1998.

BÀI LIÊN QUAN:


NHỮNG HÌNH ẢNH NHÀ THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU:
Hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Phan Hoàng




Thứ Năm, 25 tháng 4, 2019

THẨM THỆ HÀ NHÌN TỪ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU, PHÊ BÌNH VĂN HỌC

Lĩnh vực để lại nhiều dấu ấn nhất của Thẩm Thệ Hà chính là văn xuôi và những tác phẩm có giá trị nhất tập trung chủ yếu trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Trong giai đoạn 1945 - 1954, ông sáng tác tổng cộng 3 bộ tiểu thuyết:  ngựa cầu thuGió biên thùyNgười yêu nước.
Nhà văn Thẩm Thệ Hà

1. Tiểu sử tác giả

Tác gia Thẩm Thệ Hà tên thật là Tạ Thành Kỉnh, sinh ngày 9/3/1923 tại làng Gia Lộc, huyện Trảng Bàng, Tây Ninh. Cha ông là Tạ Thành Tàu, mẹ là Nguyễn Thị Tám. Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu. Thẩm Thệ Hà học tiểu học ở Trảng Bàng, trung học ở Sài Gòn, đỗ tú tài Pháp và lập gia đình năm 22 tuổi. Ông tham gia Cách mạng từ 1945, hoạt động trong Ban điệp báo Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Năm 1949, cùng với Vũ Anh Khanh (1926 - 1956) thành lập nhà xuất bản Tân Việt Nam. Từ 1952, để kiếm sống và hoạt động trong vùng tạm chiếm, Thẩm Thệ Hà dạy Việt văn ở các trường trung học Nguyễn Văn Khuê, Chi Lăng, Tân Thanh, Đặng Văn Trước, Đức Trí, Dân Trí, Trần Hưng Đạo. Năm 1966, cùng với Tô Nguyệt Đình (1920 - 1988) thành lập nhà xuất bản Lá Dâu. Hai nhà xuất bản Tân Việt Nam và Lá Dâu đã in được nhiều tác phẩm văn chương có khuynh hướng đấu tranh cách mạng. 

Trước 1975, Thẩm Thệ Hà từng viết bài cộng tác và biên tập các báo và tạp chí Văn hóaViệt bútĐại chúngLẽ sốngTiếng chuôngTin sớmÁnh sángDân tộcTin lửaNhân loạiTiểu thuyết thứ bảy; phụ trách mục “Phê bình sách mới” và “Những áng thơ hay” trên tạp chí Phổ thông (1958 - 1965) của Nguyễn Vỹ (1912 - 1971) giới thiệu cả những tác giả miền Bắc đương thời như Huy Cận, Thanh Tịnh, Ngân Giang, Yến Lan, Lưu Trọng Lư. Sau 1975, ông cộng tác với các báo và tạp chí VănVăn nghệ Thành phố Hồ Chí MinhBách khoa văn họcSân khấuSài Gòn giải phóng thứ bảyGiác ngộ. Ông là hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh khóa đầu tiên và hội viên Hội Văn nghệ Tây Ninh. Qua một thời gian đau yếu, ông mất ngày 20/6/2009 tại TP. Hồ Chí Minh, hưởng thọ 88 tuổi.

2. Sự nghiệp văn chương

Nghiệm sinh trên cõi đời 88 năm tuổi trời và 63 năm tuổi văn, Thẩm Thệ Hà đã để lại hàng chục tác phẩm dài ngắn khác nhau, bao gồm nhiều bộ môn chuyên ngành, nhiều thể loại và thể tài, nhiều hình thức và phương thức sáng tác. Trên thực tế, số lượng tác phẩm của Thẩm Thệ Hà phân chia theo thể loại có 7 tiểu thuyết (1 tiểu thuyết còn ở dạng bản thảo), 14 truyện ngắn, 14 truyện viết cho thiếu nhi, 2 vở kịch, 2 tập thơ (di cảo), 3 tác phẩm dịch, 2 tập khảo cứu, 5 bộ sách giáo khoa, 1 tập hồi ký, nhiều bài phê bình văn học đăng báo…

Thẩm Thệ Hà đến với văn chương khi còn học trung học. Năm 1937, với bút hiệu Thành Kỉnh, ông đã có thơ đăng trên Phổ thông bán nguyệt san ở Hà Nội và các báo ở Sài Gòn như Đồng trinhChúa nhậtThanh niênĐiện tín. Các bài thơ được độc giả biết đến và mang lại chút tiếng tăm cho tác giả như Trịnh ĐánRồi mỗi chiều xuânDòng mơ chung thủyXuân thanh sắc,… Sau Cách mạng tháng Tám có các bài Trời nổi phong yênViệt Nam mến yêuTống biệt hànhKhóe mắt u hoàiTrường thành sông Đua,… Thơ của ông được tập hợp thành hai tập chưa xuất bản là Thâm thúy (Thơ trước 1945) và Trời nổi phong yên (Thơ sau 1945). Về văn xuôi có các bộ  ngựa cầu thu (Tân Việt - 1949), Gió biên thùy (Tân Việt - 1949), Người yêu nước (Tân Việt Nam - 1949), Đời tươi thắm (Lá Dâu - 1956), Hoa trinh nữ (Sống mới - 1957), Bạc áo hào hoa (Miền Nam - 1969), Tủi phấn thẹn hồng (bản thảo chưa in),…; các truyện ngắn Nàng Phượng tóc thề (1960), Ai nghe lòng đất quặn đau (1961), Tình yêu và lý tưởng (1989), Thằng đưa đám (1990), Lửa tình (1991), Nhan sắc tàn phai (1991), Cánh hồng lưu luyến (1993), Duyên dáng Quỳnh Như (1994), Tổ ấm chim bay (1994), Thanh mai trúc mã (1994), Nhà sư dị thường (1996),…; truyện viết cho thiếu nhi Bài học thương nhauCon chim xanhTàn giấc mơ tiênTiểu anh hùngThần điểu và hoa hồngThiên tài lạc lốiNhân ngư công chúaNgọc tuyền thảm sử,…; biên khảo Việt Nam trên đường cách mạng tân văn hóa (1949); dịch tiểu thuyết Con đường cứu nước(Maroussia của P. J. Satahn, Nam Việt - 1947) và Mũi tên đen (The Black Arrow của S. L. Stevenson, Sống mới - 1965).

Với những đóng góp quan trọng cho văn học và Cách mạng giải phóng dân tộc, Thẩm Thệ Hà được ghi nhận là “một nghệ sĩ đa năng” (Hoàng Tấn, trong Thanh Việt Thanh: Thẩm thệ Hà - thân thế và sự nghiệp, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr.12), “Một cấy bút khả kính” (Trần Hữu Tá, Một cây bút khả kínhTuổi trẻ chủ nhật, số 9 - 2003, ra ngày 9 - 3 - 2003, tr. 24), tác phẩm của ông có mặt trong một số chuyên luận và tuyển tập như Thi nhân Việt Nam hiện đại của Phạm Thanh, Thi ca Việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Kiệt, Thơ mùa giải phóng (Nxb Sống chung), Văn chương tranh đấu miền Nam của Nguyễn Văn Sâm, Tuyển tập thơ, truyện ngắn Thành phố Hồ Chí Minh (Kỉ niệm 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh), Thẩm Thệ Hà - thân thế và sự nghiệp của Thanh Việt Thanh, Nhìn lại một chặng đường văn học của Trần Hữu Tá, Từ điển Văn học (bộ mới) của nhiều tác giả, Văn học nơi miền đất mới của Nguyễn Q. Thắng,… Điều đó cho thấy tác giả xứng đáng có một chỗ đứng trong lịch sử văn học, đặc biệt là văn học Nam Bộ.

Lĩnh vực để lại nhiều dấu ấn nhất của Thẩm Thệ Hà chính là văn xuôi và những tác phẩm có giá trị nhất tập trung chủ yếu trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Trong giai đoạn 1945 - 1954, ông sáng tác tổng cộng 3 bộ tiểu thuyết:  ngựa cầu thuGió biên thùyNgười yêu nước. Ba bộ tiểu thuyết này đều được xuất bản năm 1949. Tiểu thuyết Thẩm Thệ Hà sở dĩ được hoan nghênh vì “chủ đề rất tập trung, nhất quán: sự trăn trở và động viên nhau tìm đến với lý tưởng cứu quốc của thế hệ thanh niên trong một bối cảnh không gian xác định (miền Nam Việt Nam) và trong một thời gian cụ thể (Những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945 và những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp)”1.

Vó ngựa cầu thu là một trong những tiểu thuyết biểu của Thẩm Thệ Hà viết về những năm trước Cách mạng tháng Tám. Sơn sinh ra trong một gia đình trưởng giả và sớm có tư tưởng cách mạng. Chàng từng theo một chiến sĩ Quốc dân đảng sang Trung Quốc và học Trường võ bị Hoàng Phố. Sơn xót xa vì những nghĩa sĩ của phong trào phải lên đoạn đầu đài. Từ nước ngoài, chàng và những người đồng chí nhận thấy các quan niệm quốc gia cổ truyền của ta không còn hợp nữa. Sơn và người đồng chí tên là Thái vượt biên giới về nước gây cơ sở phong trào trong nước.

Sơn và Thái tạm chia tay nhau vì Thái có việc riêng gia đình. Trên đường đi, Sơn tình cờ ngụ trong nhà của một cụ già yêu nước muốn lập lại chế độ phong kiến. Cụ từng có liên hệ với các sĩ phu trong phong trào Cần vương. Sống với cụ có hai người cháu là Phương Lan và Phượng Nhi. Phương Lan - người cháu lớn, nết na xinh đẹp chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần phục cổ của cụ. Ba tháng sống trong không khí thân tình, đùm bọc của ba ông cháu nhà chí sĩ, Sơn có cơ hội hướng tâm hồn Phương Lan theo cách suy nghĩ và hành động phù hợp với tình hình hiện tại của đất nước. Tình yêu bắt đầu nảy nở giữa Sơn và Lan. Thế nhưng, vì đất nước, Sơn phải chia tay ông cháu Phương Lan để cùng Thái thi hành nhiệm vụ bí mật.

Trên đường lên Bắc Sơn, Sơn và Thái bị bắt giam. Họ đang tìm cách vượt ngục thì có người đến cứu thoát. Trên đường chạy trốn Sơn tự nghĩ mình đừng nên mơ tưởng về Phương Lan nữa. Nhưng không ngờ, chính Phương Lan là người cứu sống chàng và Thái, sau đó nàng bị truy đuổi và hi sinh. Phương Lan đã giác ngộ theo con đường của Sơn. Trước khi nhắm mắt trong vòng tay của Sơn, Phương Lan đã xúc động “từ ngày nghe được lời anh em đã giác ngộ. Em đã theo hai anh từng bước, tiếc thay em không phải là một chiến sĩ có tài... Chết vì nghĩa vụ là danh dự của người chiến sĩ, được chết trên tay anh là diễm phúc của em rồi”.

Nội dung Vó ngựa cầu thu cho thấy dự đồ sáng tạo của tác giả: viết về những con người trẻ tuổi đi theo cách mạng. Không khí truyện khiến chúng ta nghĩ đến phong trào khởi nghĩa Yên Bái. Tiếng vọng của cuộc khởi nghĩa Yên Bái cùng sự hi sinh của các nhà cách mạng có tác động ít nhiều đến ngòi bút Thẩm Thệ Hà. Thế nhưng, về mặt hình tượng văn chương, Sơn và Thái là sự tiếp nối các hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn: có nhiều sự đồng cảm với nhân dân, sẵn sàng quăng mình vào gió bụi. Tuy vậy, khác với các nhân vật Dũng, Thái, Tạo trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, các nhân vật của Thẩm Thệ Hà đã có những ý hướng, lý tưởng cụ thể trong hành động. Nổi bật trong Vó ngựa cầu thu chính là mối tình giữa Sơn và Lan. Tình yêu của họ được ngòi bút tác giả thể hiện theo kiểu tình yêu trong các cuốn tiểu thuyết theo khuynh hướng lãng mạn, có kết thúc buồn. Hình ảnh Sơn và Lan đi chơi Tùng Lâm rồi suối Ngọc Tuyền đã là một dự cảm buồn cho kết cục một cuộc tình. Cốt truyện Vó ngựa cầu thu nhẹ nhàng, không phức tạp, ít có những xung đột. Tác giả tỏ ra khéo léo trong việc mô tả tâm trạng của Sơn và Lan, những cung bậc tình cảm của hai người đang yêu trong một không gian truyện cổ kính.

Nếu Vó ngựa cầu thu viết về những năm trước Cách mạng tháng Tám thì Người yêu nước viết về không khí của những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Người yêu nước viết về những trí thức trên đường đến với cách mạng. Ngay lời phi lộ, tác giả đã cho biết mình chủ trương viết theo khuynh hướng “Văn chương tranh đấu”. Viết về những trí thức thành thị hẳn Thẩm Thệ Hà có nhiều thuận lợi. Công việc dạy học và sinh hoạt ở thành thị đã cung cấp cho ông những trải nghiệm quý báu khi viết về những con người này. Vũ, nhân vật chính của truyện, sinh ra trong gia đình giàu có, thích đọc sách tư tưởng và làm thơ, con quan tri phủ. Phượng, người bạn gái của Vũ, xinh đẹp, từ thuở nhỏ đã say mê nghệ thuật. Bão, sinh ra trong gia đình nghèo khó và là bạn học của Vũ. Từ khi chia tay Vũ ở trường học, Bão giác ngộ và đi theo cách mạng nhờ sự hướng đạo của giáo sư T và các bạn trong tù. Họ gặp lại nhau trong một hoàn cảnh đặc biệt: Bão bị bắt và tạm giam nơi dinh thự của quan tri phủ. Cuộc gặp gỡ nơi hầm tối nhà giam đã làm thay đổi cuộc đời của Vũ. Những cuộc tiếp xúc với Bão đã làm chàng hiểu được vẻ đẹp của lý tưởng cách mạng. Từ một người sống mộng mơ, làm thơ ủy mị và ít có mối liên hệ với quần chúng, Vũ từ bỏ gia đình và cuộc sống sung túc để bước vào con đường hoạt động cách mạng. Hành động cao đẹp và tình yêu trong sáng của Vũ đã giác ngộ Phượng đi theo lý tưởng cách mạng. Và cũng chính cô đã giác ngộ cho cha mình con đường đấu tranh để giải phóng dân tộc. Phượng trở thành cán bộ chỉ huy lực lượng vũ trang cách mạng bên cạnh Vũ và Bão. Trong một trận đánh, cô bị bắt giam nhưng vẫn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng. Phượng bị thực dân kết án tử hình. Nhờ sự can thiệp của một người Pháp, trước đây thọ ơn cha con cô trong cuộc bố ráp của hiến binh Nhật, Phượng được giảm xuống án chung thân. Trong tù, Phượng viết cho Vũ một bức thư thể hiện niềm tin về một tương lai tươi sáng.

Người yêu nước ra đời được báo chí tiến bộ đương thời đánh giá rất cao. Dương Tử Giang (1918 - 1956) nhà văn cùng thế hệ với Thẩm Thệ Hà đã viết trên Nguồn sống (số 3): “Người yêu nước có lẽ là quyển truyện dài khá nhất đã xuất bản từ sau chiến tranh đến ngày truyện ấy ra đời”; Nguyễn Bảo Hóa (bút hiệu Tô Nguyệt Đình) viết trên báo Ánh sáng (số 346-347): “Sáng tác được một tác phẩm như Người yêu nướcchẳng phải là một việc dễ. Tác giả đã tỏ ra sự cố gắng trong lúc ghi chép những phản ảnh của thời đại, nó đánh dấu một biến chuyển lớn lao của nền văn hóa nước nhà”; Việt báo (số 4) cũng nhận định: “Hành văn trong sáng và linh hoạt. Cốt truyện cảm động và ý nhị. Có thể nói đó là tác phẩm đặc sắc nhất của tác giả, và Thẩm Thệ Hà đã thành công ở công cuộc biểu dương nền ‘văn chương tranh đấu’ với tác phẩm này”.

Người yêu nước viết về cuộc sống xã hội của những con người, đặc biệt là những thanh niên trí thức, trước cách mạng tháng Tám và những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Vũ là nhân vật tiêu biểu cho lớp thanh niên trí thức thành thị, sống sung sướng, những ngày đầu cuộc kháng chiến còn bỡ ngỡ, hoài nghi. Sau khi được Bão giác ngộ, Vũ đi theo cách mạng và cảm thấy ngạc nhiên với sự thay đổi của mình. Chàng lặn lội khắp các vùng quê hẻo lánh và đem những hiểu biết của mình dạy cho những người dốt nát. Vũ nhận ra rằng cách mạng chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ. Điều kiện đủ chính là sự hưởng ứng nhiệt liệt của quần chúng nhân dân lao động. Bởi “cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân”, “dân là gốc” là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. 

Trong Người yêu nước ta thấy xuất hiện một kiểu nhân vật tương đối gần gũi với kiểu nhân vật mà sau này trở thành phổ biến trong các tác phẩm văn xuôi giai đoạn chống Mỹ cứu nước: nhân vật “người Đảng”. Nhân vật “người Đảng” là nhân vật đã giác ngộ và đi theo cách mạng rồi quay trở lại tác động, giác ngộ cho những nhân vật khác. Trong Người yêu nước: Bão giác ngộ cho Vũ; Vũ giác ngộ cho Phượng; Phượng lại giác ngộ cho cha mình. Trong tiểu thuyết Vó ngựa cầu thu, nhân vật Sơn cũng có một kiểu thức như vậy. Sơn đã giác ngộ cho Lan Phương. Những nhân vật như Vũ, Sơn có những nét gần gũi với A Châu trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Thế trong Đất nước đứng lên và Quyết trong Rừng xà nu của Nguyên Ngọc, Chị Ba Dương trong Một chuyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái,… đó là nhân vật xuất hiện để giác ngộ quần chúng đi theo cách mạng. Với họ, tình yêu của cá nhân, nhiệm vụ đối với gia đình đành tạm gác lại và dành tất cả sức lực, trí tuệ cho nhiệm vụ cứu nước. Họ đến với cách mạng với tinh thần tự nhiệm. Hình ảnh của Vũ khiến chúng ta không thể không liên tưởng đến nhân vật Dũng trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh (1905 - 1963). Cũng như Dũng, Vũ cảm thấy khổ sở và dằn vặt trước đời sống sung túc của mình và muốn làm một điều gì đó có ích cho giới cần lao. Và cuộc “tìm đường” của Vũ cũng khiến ta nhớ đến những trí thức tìm đường và nhận đường trong Đôi mắtcủa nhà văn Nam Cao (1915 - 1951). Người yêu nước có nhiều trường đoạn về sự triết lý con đường giải phóng dân tộc của những người trí thức. Cũng có lúc họ dao động, mất niềm tin vào “đám cần lao, cùng khổ, thất học” nhưng rồi chính họ lại tự đánh tan ngờ vực và thấy ở khối người đó có sức mạnh to lớn. Nguyễn Văn Sâm có lý khi cho rằng Người yêu nước đã thể hiện một “diễn trình ý thức cách mạng”2 của tác giả. Người yêu nước là tác phẩm có chiều sâu nhất của Thẩm Thệ Hà: giọng kể thay đổi linh hoạt khi thì ngôi thứ nhất, khi thì ngôi thứ ba; cuộc sống và cách mạng được thể hiện qua điểm nhìn từ nhiều phía của các nhân vật. Nó xứng đáng được xem là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất trong văn nghiệp của nhà văn.

3. Thẩm Thệ Hà và con đường cách mạng tân văn hoá

Viết về chân dung phê bình văn học Thẩm Thệ Hà trước 1954 cần tập trung vào cuộc bút chiến trao đổi giữa nhóm Chân trời mới và Tân Việt Nam trên Việt bút và Tiếng chuông.

Trong bài viết Tâm sự của nhà phê bình trước thềm năm mới, Thẩm Thệ Hà tâm sự về công việc giữ mục “Phê bình sách mới” trên tạp chí Phổ thông: “Tôi rất ái ngại khi nhận phụ trách mục “Phê bình sách mới”. Nhiều nhà phê bình đã than phiền với tôi rằng: “phê bình thẳng thắn thường hay bị đụng chạm. Nhà phê bình bị oán ghét nhiều hơn là được khích lệ”. Chính tôi cũng công nhận điều nhận xét ấy: phê bình thiên lệch, ca ngợi vì tình cảm cá nhân sẽ bị độc giả khinh bỉ; phê bình khách quan, chỉ trích thẳng tay sẽ bị nhà văn, nhà thơ ác cảm. Vậy thì nhà phê bình biết trọng thiên chức, sứ mạng của họ thật khó khăn và bạc bẽo biết bao. Tôi thường nghĩ: “sinh hoạt văn nghệ thiếu phê bình sẽ trở nên tẻ nhạt. Phê bình rất cần để đem lại sinh khí mới mẻ cho vườn hoa nghệ thuật” vì vậy tôi không ngại sứ mạng khó khắn và bạc bẽo, vui vẻ cầm bút phê bình sách mới cho tạp chí Phổ thông” (Tâm sự của nhà phê bình trước thềm năm mới, Tạp chí Phổ thông, số 120, 1964). Đó là tâm sự của một người có “thâm niên” trong lĩnh vực phê bình văn học trước 1954.

Nhóm Chân trời mới chủ trương Văn chương tả chân xã hội (tức văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa), còn nhóm Tân Việt Nam và nhiều nhà văn độc lập khác chủ trương Văn chương tranh đấu. Nhóm Chân trời mới đại diện là Thiên Giang và Thê Húc, “phủ nhận văn chương tranh đấu” (lời Thẩm Thệ Hà), vì vậy xảy ra cuộc bút chiến hàng mấy tháng trời trong năm 1948 trên các báo Việt bútTiếng chuông giữa Thẩm Thệ Hà và Thiên Giang, Thê Húc. Các bài viết trên Việt bút và Tiếng chuông về sau được tập hợp và biên tập thành cuốn Việt Nam trên đường cách mạng Tân văn hoá.

Việt Nam trên đường cách mạng Tân văn hoá có tác động đối với đời sống văn học và định hình thiên hướng của gương mặt phê bình Thẩm Thệ Hà trong đường hướng: đọc văn chương như một hoạt động văn hoá để bảo vệ dân tộc. Trong tác phẩm này, ông đã viết: “Sau khi phong trào giải phóng bột khởi, văn hoá Việt Nam bước qua một giai đoạn mới: văn hoá là một lợi khí sắc bén để tranh đấu cho sự mất còn của một dân tộc. Văn chương là một hoạt động của văn hoá, lẽ tức nhiên cũng góp phần nào vào cuộc tranh đấu ấy. Trước ngày giải phóng, văn chương là một lợi khí vị nhân sinh, nay vì lẽ tồn vong của nước nhà mà chuyển thành một lợi khí tranh đấu” (Việt Nam trên đường cách mạng Tân văn hoá, Tân Việt, 1949, tr.40). Tinh thần ấy cũng được tác giả nhắc lại trong lời tựa tiểu thuyết Người yêu nước (1949).

Thẩm Thệ Hà viết phê bình có quan điểm và sứ mệnh rõ ràng. Giữa quan điểm phê bình và ý hướng sáng tác của ông là khá thống nhất. Ông viết nhiều bài phê bình sau 1954 khi phụ trách chuyên mục “Phê bình sách mới” và “Những áng thơ hay” trên tạp chí Phổ thông (1958 - 1965) của Nguyễn Vỹ. Nhìn chung, tác giả vẫn giữ được phong cách và quan niệm về phê bình trên Việt bút và Tiếng chuông.

Nghiên cứu phê bình văn học, Thẩm Thệ Hà thiên về phương pháp phê bình lịch sử xã hội. Trong các bài viết, ông cho thấy sự bao quát lịch sử xã hội đồng thời là sự cảm thụ tinh tế. Cần chú ý, bên cạnh những bài phê bình văn học, các sách nghị luận, giảng văn (chủ yếu sau 1954) cũng cho thấy rõ xu hướng thẩm bình của ông.

Tác giả là cây bút sở trường văn xuôi đồng thời lại có khả năng thẩm định thơ tinh tế (tác giả cũng là một người làm thơ, bắt đầu bước vào con đường văn nghệ bằng những vần thơ).

Phong cách chuẩn mực nơi ngòi bút Thẩm Thệ Hà có lẽ do ảnh hưởng từ học vấn và nghề nghiệp (ông sống chủ yếu bằng nghề dạy học), ông đặc biệt yêu thích và tỏ ra tinh tế nơi những tác phẩm gắn với môi trường giáo dục?

4. Tạm kết

Có thể thấy, so với thời kỳ trước 1954, văn phong của Thẩm Thệ Hà không mấy thay đổi, có chăng là trong cách nhìn nhận đánh giá hiện thực cuộc sống. Trước đây văn ông đầy chất lãng mạn, lạc quan thì nay lại thêm dư vị đắng cay, đôi chút đượm buồn. Các tiểu thuyết của Thẩm Thệ Hà dù được viết sau 1945 nhưng nhiều nhân vật vẫn mang hơi thở của các nhân vật thời tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Những Sơn và Lan (Vó ngựa cầu thu), Vũ và Phương (Người yêu nước), Thúy (Đời tươi thắm) dù sống trong thời chiến nhưng họ vẫn mang những tâm tình lãng mạn, có lúc họ mơ mộng viển vông, chìm đắm trong những nỗi buồn vô cớ. Thế nhưng, điểm làm cho người đọc yêu thích nhân vật của Thẩm Thệ Hà chính là nhờ vào quá trình thay đổi nhận thức của họ trước thời cuộc. Con người trong tiểu thuyết Thẩm Thệ Hà được miêu tả sẵn sàng hi sinh tình yêu riêng tư cho hạnh phúc chung của toàn dân tộc. Tình yêu nhiều khi đóng vai trò là động lực tinh thần giúp cá nhân vượt qua khó khăn, thử thách để hoàn thành nhiệm vụ đối với đất nước.

Nhận xét về các tiểu thuyết của Thẩm Thệ Hà, nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá cho rằng: “Thời gian qua đi, giờ đây đọc lại người đọc dễ thấy những khiếm khuyết của tác giả về phương diện dựng truyện, khắc họa tính cách tâm lý… nhưng vẫn không thể không xúc động: người viết đã gửi vào trang sách của mình một tấm lòng nặng tình với đất nước”. Cái làm nên tầm vóc Thẩm Thể Hà đúng là qua trang sách tác giả đã thể hiện được tấm lòng “nặng tình với đất nước” và chúng tôi xinh nhấn mạnh thêm điểm quan trọng khác chính là ở sự chân thật trong ngòi bút và nhân cách trí thức của nhà văn(3).

PHAN MẠNH HÙNG

Chú thích:
1.       Nhiều tác giả: Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới, 2004, tr.1643.
2.       Nguyễn Văn Sâm: Văn chương tranh đấu miền Nam, Kỷ Nguyên xb, Sài Gòn, 1969, tr.150.
3.       Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) trong khuôn khổ đề tài mã số 2013B-18b-05.

Tài liệu tham khảo
1.       Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới.
2.       Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1998), Địa chí văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh, tập III, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
3.       Trần Tuấn Kiệt (1967), Thi ca Việt Nam hiện đại 1880 - 1965, Khai Trí xuất bản, Sài Gòn.
4.       Võ Văn Nhơn (1997), “Văn xuôi yêu nước và tiến bộ trong các thành thị bị tạm chiếm (1945 - 1954)”, Tập san Khoa học Xã hội & Nhân văn, số 5.
5.       Trần Hữu Tá (2003), “Một cây bút khả kính”, Tuổi trẻ chủ nhật, số 9, ra ngày 9 /3/2003.
6.       Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
7.       Thanh Việt Thanh (1993), Thẩm thệ Hà - thân thế và sự nghiệp, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
8.       Nguyễn Q. Thắng (2008), Văn học Việt Nam nơi miền đất mới, Nxb Văn học, Hà Nội.
9.       Nguyễn Văn Sâm (1969), Văn chương tranh đấu miền Nam, Kỷ Nguyên xuất bản, Sài Gòn.
10.   Nguyễn Văn Sâm (1972), Văn chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945 - 1950, Lửa Thiêng xuất bản, Sài Gòn.
11.   Nguyễn Thị Thanh Xuân (1998), Nhìn lại văn học kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1945-1954), In trong Bình luận văn học, niên giám 1997, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Nguồn: Tạp chí khoa học Văn hóa và Du lịch, số 2&3 (82&83), tháng 3&5/2016

NHÀ VĂN THÙY DƯƠNG: TRĂN TRỞ VỚI MỖI THÂN PHẬN NGƯỜI

Nếu không biết Thùy Dương sinh ra và lớn lên ở Hải Dương, sẽ đoán   chắc nàng là người Hà Nội gốc. Gọi là nàng v ì nàng không chỉ xinh đẹp, ...

BÀI ĐỌC NHIỀU