Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2019

NHÀ THƠ HUY CẬN VỚI QUÊ HƯƠNG, DÒNG TỘC

Nhiều người thường nhớ, thường nhắc về một chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm bởi tuyệt bút của Hoài Thanh - nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận... Nhưng có lẽ ít người biết về một Danh nhân văn hóa Cù Huy Cận với mối quan hệ bền chặt, đầy nghĩa tình thủy chung cùng quê hương, dòng tộc, từ lúc sinh ra cho đến phút cuối đời...
Nhà thơ Huy Cận 

1.
Huy Cận sinh ngày 31-5-1919 (cũng có tài liệu nói ông sinh ngày 22-1-1917) tại xã Ân Phú, thời đó thuộc huyện Hương Sơn, sau chuyển về Đức Thọ và nay là huyện Vụ Quang, Hà Tĩnh.

Ân Phú tuy chật hẹp (diện tích khoảng 9 km2, dân số hơn 2.000 người) nhưng sơn thủy hữu tình, giáp ranh giữa ba huyện Vũ Quang, Hương Sơn và Đức Thọ. Tên Ân Phú hiện cũng có nhiều cách giải thích khác nhau, nhưng nghĩa chung là giàu có, thịnh vượng - xuất hiện từ đầu thời Tự Đức (1847). Đây không chỉ là vùng đất hiếu học, giàu truyền thống văn hóa mà còn nổi tiếng yêu nước, cách mạng với nhiều người tham gia các phong trào Cần vương, yêu nước, có 59 liệt sĩ qua các cuộc kháng chiến. Hiện nay, Ân Phú đang là một điểm sáng về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; đã đạt chuẩn nông thôn mới từ khá sớm...

Cùng với họ Trần và họ Nguyễn, họ Cù là một trong ba dòng tộc đầu tiên có công khai ấp lập làng. Trong số 32 vị tiên hiền, hậu hiền được nhân dân thờ tự cho đến nay, có đến bảy vị họ Cù. Theo hồ sơ khoa học di tích lịch sử văn hóa Đền Vại, thì ngoài dòng tộc Cù Hoàng từ Quỳnh Lưu chuyển cư vào, họ Cù Huy tôn Binh bộ Thượng thư Cù Ngọc Xán là tiên Thủy tổ. Tuấn vũ hầu Cù Ngọc Xán được nhà Lê ban quốc tính, sau được phong tước Vương, thờ tại Đền Vại với mỹ danh Tượng Sơn Cao Liệt tôn thần. Ông là phu quân của bà Ngô Thị Ngọc Điệp, sinh khoảng đầu thế kỷ XV, con gái thứ 14 của Dụ Vương Ngô Từ, hậu duệ thứ 13 của Ngô Quyền; bà cũng là chị của Ngô Thị Ngọc Dao, mẹ vua Lê Thánh Tông. Bà Ngọc Điệp là Quận Quân Á tước, được phong thần là Lê Triều Hoàng hậu, mất ngày 13 tháng 2 âm lịch tại Trại Đầu - Ân Phú và trở thành người mẹ tinh thần của vùng đất này trong suốt 600 năm qua; riêng Triều Nguyễn đã có bảy sắc phong.

Như vậy là sự hợp duyên giữa hai dòng tộc Cù - Ngô của vị Thủy tổ đã mang lại cho làng xã, dòng họ một sức sống bền bỉ, một truyền thống văn hóa, yêu nước xuyên suốt năm thế kỷ. Và đến thế kỷ 20, không biết có lời “mách bảo” nào từ nguồn cội không mà hai thi sĩ chủ tướng của phong trào Thơ Mới, Cù Huy Cận - Ngô Xuân Diệu đã kết thân ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên trên đất Huế, tạo thành một Tình Bạn lớn hết sức đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam.

Hỡi ai đó, có nhớ chàng Huy Cận
Gọi gió trăng mà thỏ thẻ với lời trên
Rất thương yêu, xin nhớ gọi giùm tên
Rất an ủi của bạn chàng: Xuân Diệu

(Thơ Huy Cận - Mai sau)

Chi nhánh họ Cù Huy có thủy tổ là Cù Thạch Khối đến Huy Cận là tám đời. Khoảng năm 1942, họ Cù Huy lại tách thành hai cánh. Huy Cận là con trai đầu của cụ Cù Trương, từng thi Hương trúng Tam trường, sau theo học Quốc ngữ, chữ Tây, hết cấp Tiểu học được bổ làm Hương sư ở Thanh Hóa một thời gian, sau về quê dạy học, cày ruộng. Mẹ là bà Bùi Thị Chi sinh trưởng trong một gia đình có nhiều người đỗ đạt ở làng dệt lụa Hạ nổi tiếng vùng Tùng Ảnh.

Đường về Ân Phú quê cha
Sông La uốn khúc Mồng Ga núi gần,
Đường về quê mẹ quen chân
Tam Soa bến cũ mấy lần đò xuôi

...Một đời mòn gót nghìn đường
Bước về đầu xóm rưng rưng lệ nhòa...

2.
Đọc “Hồi ký song đôi” (Nxb Hội Nhà văn, H. 2011), ta sẽ nhận thấy quê hương Ân Phú nói riêng và Hà Tĩnh, xứ Nghệ nói chung thật sự là mạch nguồn của rất nhiều tác phẩm văn học của Huy Cận. Xuân Diệu từng nhận xét - quê hương đã cung cấp cho Huy Cận một cái vốn đất đai gì sâu thẳm lắm như từ ruột của thời gian. Và chính Huy Cận trong bài thơ “Tôi nằm nghe đất” đã chia sẻ:

Tôi sinh ra ở miền sơn cước
Có núi làm xương cốt tháng ngày
Đất bãi tơi làm da thịt mát
Gió sông như những mảng hồn bay...

Quê hương hiện ra trong thơ Huy Cận thật cụ thể, yên bình:

Tuổi nhỏ tôi trùm trong nhớ thương
Cách sông chợ Nướt, bến đò sương
Làng quê sơn cước chiều về sớm
Bóng núi dài lan mát ruộng nương...

Mãi sau này, trong bài thơ “Yêu đời” ông cũng nhắc lại: Quê anh cà nhút mặn mòi/ Sinh anh muối mặn yêu đời, đó em! Khung cảnh làng quê cũng chính là thi hứng trực tiếp của những tuyệt thi như “Tràng Giang”, “Ngậm ngùi” và nhiều sáng tác sau 1945.

Đặc biệt, trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại hai thi phẩm nổi tiếng như để tri ân quê hương - “Gửi người xứ Nghệ” đã được phổ nhạc và thành bài ca “đi cùng năm tháng” (Ai vô xứ Nghệ), và “Ngã ba Đồng Lộc” - như dựng thêm một tượng đài vĩnh cửu bằng thi ca:

Trong đời mỗi dân tộc cũng có những ngã ba/ Những ngã ba vận mệnh/ Những cái nút trên dặm dài lịch sử/ Gặp những ngã ba đời con sẽ nghĩ suy/ Và con ơi, muốn tìm đúng hướng đi/ Con sẽ nhớ đến ngã ba Đồng Lộc/...Là ngã ba nhưng nào có phân vân/ Nào có đắn đo do dự!/... Nhưng hướng đi đã quyết/ Không phải cho một lần/ Mà cho tất cả mọi lần/ Không phải cho một người/ Mà cho tất cả quê hương, đất nước...

Với những thành công lớn trong sự nghiệp chính trị và đặc biệt là sự nghiệp văn hóa, văn học, người đầu tiên của Việt Nam được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ thế giới (2001), hoặc như nhận xét của Vũ Đình Minh - nhà thơ hoạt động chính trị, nhà văn hóa lừng danh vượt qua cả biên giới quốc gia để hòa nhập vào dòng văn hóa của thế giới - Huy Cận đã thật sự mang lại niềm vinh dự, tự hào cho dòng tộc và quê hương Hà Tĩnh.

3.
Sinh thời, Huy Cận dành rất nhiều tâm huyết, tình cảm cho quê hương. Ngày thơ Việt Nam lần đầu tiên (2003) được Hội Nhà văn tổ chức tại Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du (Nghi Xuân, Hà Tĩnh), nhà thơ Huy Cận đã về dự, đánh trống khai hội và phát biểu, đọc thơ rất say sưa. Ông cũng tranh thủ mọi cơ hội để về thăm, động viên, giúp đỡ quê hương, dòng tộc.

Mặc dù rất bận rộn với nhiều hoạt động khác nhau nhưng ông vẫn không quên trách nhiệm của một Tộc trưởng dòng họ. Ông đã trực tiếp lập gia phả, viết lời mở đầu rất thống thiết: “Chim có tổ, người có tông. Chúng ta là các lớp hậu duệ của tổ tiên xem, thuộc tộc phả để ghi lòng tạc dạ tinh thần thương yêu đùm bọc lấy nhau của cha ông, cố kết với nhau vì tình nhà nghĩa nước. Tộc phả cũng là lịch sử của họ ta, một họ tuy không đông người nhưng đã có đóng góp xứng đáng vào công việc của quê hương, làng nước. Có thuộc quá khứ mới mở mang được tương lai. Xin bà con trong họ giữ gìn và phát huy ý nghĩa, tác dụng giáo dục của bản tộc phả thiêng liêng này”.

Năm 2002, ông viết “Di chúc về vấn đề lưu niệm”, trong đó khẳng định việc được thờ tự tại quê nhà: “Vợ con tôi sẽ thờ tôi tại nhà và đất ở của tôi ở 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội và thờ tôi tại nhà thờ họ Cù Huy cánh tiểu tôn ở xã Ân Phú, tỉnh Hà Tĩnh”.

Sau khi ông mất (19-2-2005), nhà thờ họ Cù Huy đã được tôn tạo lại và đang làm hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ngay trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Danh nhân văn hóa - Nhà thơ Huy Cận (1919 - 2019). Khép lại một đời bôn ba khắp bốn phương trời, cống hiến hết mình cho đất nước, từng giữ nhiều chức vụ trọng yếu như bộ trưởng, thứ trưởng và đại diện cho quốc gia tại nhiều tổ chức, diễn đàn văn hóa, chính trị quốc tế, để lại cho hậu thế gần 50 đầu sách, trong đó có nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Pháp hoặc được xuất bản ở nước ngoài, được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt đầu tiên (1996), Huân chương Sao Vàng cao quý..., nay ông đã được về với tổ tiên, dòng tộc, được bà con làng xã tri ân, thờ phụng như một nhân thần của quê hương, đất nước.

TS. VÕ HỒNG HẢI
Nguồn: Nhân Dân



Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2019

SÁNG TÁC CỦA NGỌC GIAO TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

Văn học sinh thái được hình thành dựa trên cơ sở những biến đổi theo chiều hướng xấu đi của môi trường sinh thái. Các nguy cơ sinh thái của con người không chỉ là thảm họa thiên nhiên, ô nhiễm môi trường nước, không khí, tiếng ồn, thức ăn...; mà cả những điều kiện bất lợi cho đời sống tinh thần. Khảo cứu văn học Việt Nam hiện đại, chúng tôi nhận thấy, ngay từ đầu thế kỷ XX, những tiếng kêu cứu cho con người đã khẩn thiết cất lên xuất phát từ những nhìn nhận sâu sắc về bản chất con người và các nguy cơ sinh thái đe dọa sự sống của họ. Ngọc Giao là một trong số đó.
Nhà văn Ngọc Giao

Trong bối cảnh các thảm họa môi trường diễn ra ngày một dày đặc hơn, sự sống tự nhiên bị tàn phá dẫn tới nhiều biến đối khí hậu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự sống của con người như hiện nay, việc “phát động” một cuộc “ra quân” nghiên cứu văn học từ lý thuyết sinh thái là một sự “phản ứng” kịp thời và có ý nghĩa thiết thực. Ở lĩnh vực sáng tác, vấn đề sinh thái không phải đến bây giờ mới được đặt ra. Từ trong cảm thức, nhiều nhà văn Việt Nam, trong những bối cảnh sinh thái nhất định, đã ít nhiều lên tiếng về điều này. Do vậy, việc dùng quan điểm của phê bình sinh thái để nghiên cứu một số tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam cũng là có cơ sở. Trong phạm vi quan sát của mình, chúng tôi chọn nói về Ngọc Giao – nhà văn có một hành trình sáng tác bền bỉ, khỏe khoắn, trải dài gần hết thế kỷ XX với nhiều băn khoăn về môi trường sinh thái của con người.

Trước hết, phải nói ngay rằng, những sáng tác của Ngọc Giao mà chúng tôi nói đến ở đây phần lớn xuất hiện từ khi nhân loại còn chưa bước vào thời đại văn học sinh thái. Bởi vậy, sẽ thật khiên cưỡng nếu vận dụng lý thuyết mới mẻ này vào nghiên cứu các tác phẩm của ông. Trên tinh thần của phê bình sinh thái, chúng tôi chỉ xin nêu một vài luận điểm xung quanh vấn đề sinh thái và lấy đó làm định hướng để nghiên cứu trường hợp này.

Môi trường sinh thái được hiểu là môi trường mà ở đó các sinh vật được sống như là chính nó. Giản dị nhất để có thể hình dung, là cách nói của nhà thơ Tố Hữu: “Con ong làm mật, yêu hoa/ Con cá bơi, yêu nước; con chim ca, yêu trời” (Tiếng ru). Từ cách hiểu này, có thể thấy, trong vũ trụ, con người là sinh vật phức tạp nhất. Ngoài đời sống tự nhiên, con người còn có phần đời sống xã hội, đời sống tâm linh vô cùng phức tạp, phong phú. Bởi vậy, môi trường sinh thái để con người sống cho ra con người không chỉ bao gồm những điều kiện tự nhiên, mà còn cả các điều kiện xã hội, văn hóa, tinh thần.

Văn học sinh thái được hình thành dựa trên cơ sở những biến đổi theo chiều hướng xấu đi của môi trường sinh thái. Các nguy cơ sinh thái của con người không chỉ là thảm họa thiên nhiên, ô nhiễm môi trường nước, không khí, tiếng ồn, thức ăn...; mà cả những điều kiện bất lợi cho đời sống tinh thần. Từ hình dung này, có thể thấy, có vô vàn nguy cơ sinh thái tinh thần khác trong sự sống của con người, chẳng hạn: sự thay đổi môi trường sống, chiến tranh, ly tán, mất người thân, bị hắt hủi/ngược đãi, bị đọa đày, bị xúc phạm nhân phẩm, bị ép buộc, cấm đoán... Tuy vậy, lâu nay, những nguy cơ về sinh thái tự nhiên vẫn được quan tâm hơn, được xem như là yếu tố quan trọng nhất, có những ảnh hưởng mang tính chất quyết định đối với sự sống của con người. Có lẽ vì thế mà thời đại văn học sinh thái của nhân loại mãi đến nửa sau thế kỷ XX mới chính thức hình thành[1]. Nhưng rõ ràng, từ nhiều thế kỷ trước, nhiều nhà tư tưởng, nhà văn đã thức tỉnh điều này. Khảo cứu văn học Việt Nam hiện đại, chúng tôi nhận thấy, ngay từ đầu thế kỷ XX, những tiếng kêu cứu cho con người đã khẩn thiết cất lên xuất phát từ những nhìn nhận sâu sắc về bản chất con người và các nguy cơ sinh thái đe dọa sự sống của họ. Ngọc Giao là một trong số đó.

Ngọc Giao sinh năm 1911, mất năm 1997, thuộc trong số những nhà văn hiện đại được Vũ Ngọc Phan giới thiệu trong công trình nổi tiếng xuất bản lần đầu năm 1944: Nhà văn hiện đại. Khởi nghiệp từ chức thư ký tòa soạn báo Tiểu thuyết thứ bảy, Ngọc Giao được biết đến đầu tiên là nhà văn của những truyện ngắn đậm chất trữ tình. Hơn ba trăm truyện ngắn của Ngọc Giao, phần lớn ra đời trước cách mạng tháng Tám, đã được in trong ba tập truyện nổi tiếng là Một đêm vui (1937), Phấn hương (1939) và Cô gái làng Sơn Hạ (1942). Truyện ngắn của Ngọc Giao thường được cấu trúc như là những tiếng nói của cái tôi trữ tình giàu lòng trắc ẩn. Ông tỏ ra không quan tâm đến cốt truyện. Bởi vậy, cốt truyện thường lỏng lẻo, mờ nhạt, khó xâu chuỗi. Dấu ấn tình cảm, cảm xúc và trạng thái tinh thần của người kể chuyện thường đậm hơn, chiếm phần nhiều hơn so với các biến cố, sự kiện. Quan tâm đến lớp người dưới đáy xã hội, những người không may mắn/chịu nhiều thiệt thòi, bị ruồng rẫy/bỏ rơi, Ngọc Giao đã viết về họ bằng tất cả tình cảm của một nhà văn hiểu sâu sắc thế nào là giá trị con người. Do vậy, truyện của Ngọc Giao có thể không ngay lập tức tạo ra ở người đọc những trạng thái cảm xúc dữ dội, bất ngờ, nhưng mỗi câu chuyện đều để lại một dư vị sâu lắng, da diết. Các tiểu thuyết của Ngọc Giao như Nhà quê (1944), Quán gió (1948), Đất (1950), Xã Bèo(?), Cầu sương (1953), Xóm Rá (1957)... đã cho thấy sự đa dạng về đề tài. Không chỉ thể hiện nỗ lực của nhà văn trong việc chiếm lĩnh một thể loại mới và khó là tiểu thuyết, các sáng tác này của Ngọc Giao còn thể hiện những góc nhìn rất mới về hiện thực và con người.
Qua sáng tác của Ngọc Giao, nhất là hai tiểu thuyết Nhà quê và Đất, dù chưa thấy ông nhắc đến hai chữ “sinh thái”, người đọc vẫn nhận thấy một cảm thức sinh thái hiện ra thật rõ. Với tinh thần đọc lại người xưa để tìm ra những ý nghĩa sinh thái từng bị che lấp, từ góc độ phê bình sinh thái, chúng tôi nhận thấy mấy luận điểm cơ bản trong sáng tác của Ngọc Giao như sau:

1. Không gian thôn quê là một không gian đáng sống

Nhà quê là tiểu thuyết đầu tay, thể hiện sự nỗ lực vượt lên chính mình sau nhiều truyện ngắn đã được người đọc ít nhiều biết đến của Ngọc Giao. Tác phẩm được viết theo cách không trực tiếp tác động vào thị hiếu thiên về giải trí của phần đông độc giả là thị dân đầu thế kỷ XX. Nó là cuốn tiểu thuyết chọn người đọc. Vào thời điểm ấy, phải là người đọc có năng lực thẩm mỹ và tình yêu văn chương nhất định, hay nói như cách của Thạch Lam, phải là “hạng độc giả thích suy nghĩ, thích tìm trong sách những trạng thái tâm lí giống tâm hồn mình”, mới tìm đọc tác phẩm này. Điều dễ nhận thấy trong Nhà quê là Ngọc Giao đã miêu tả thiên nhiên như một phần rất quan trọng trong cuộc sống của con người. Thái – nhân vật chính của tiểu thuyết – rất lâu rồi mới trở về quê, định dứt khoát bán nốt phần đất đai còn lại của gia đình rồi sẽ ra ngay Hà Nội. Nhưng không gian thôn quê, nhất là ngôi nhà nhiều cảnh vật quen thuộc, đã khơi dậy trong lòng Thái những kỷ niệm cũ gắn liền với tuổi thơ và những người yêu dấu, đặc biệt là người mẹ.

Đầu tiên là “Chiếc cổng gạch rêu phong cũ kỹ anh vừa qua đã sụt nửa mái trông rõ cả một mảnh trời và một bên tường nứt vỡ chờ ụp hẳn. Thái thấy nao nao trong tâm trạng của kẻ đã lâu ngày xa bỏ đất cát cha ông để rồi có một buổi trở về[2]. Sự hoang tàn của “căn nhà xưa yêu dấu” tiếp tục lên tiếng khi Thái được ông già Bút – người quản gia già của gia đình – đưa vào buồng ngủ: “Mùi ẩm hôi hám của chân tường, gậm phản, bàn ghế cũ nát xông lên khó chịu. Ngả lưng xuống lá chiếu do ông Bút mới thay, Thái hoang mang nhớ xưa kia bà mẹ đã sinh anh ở gian phòng này, và ngày ốm, bà đã nằm, đã chết ở đây[3]. Cảnh ấy nhắc Thái về hơi ấm của người, về một bàn tay chăm sóc khi còn chưa quá muộn. Cùng với đó, bao nhiêu kỷ niệm gắn với những người thân yêu của gia đình đã lần lượt hiện ra. Là chiếc nồi đất chứa rau của mẹ khi sinh Thái đã tình cờ bị ông Bút cuốc phải. Lời nhắc nhở của người quản gia khiến Thái bùi ngùi, khổ sở: “Anh nhặt những mảnh nồi đất vụn cầm lên mâm mê và ngửi. Mùi đất, mùi đất thơm. Thái tưởng như thịt máu cha mẹ, thịt máu mình, lại lẫn vào đó cả một thứ cỏ gì quý hiếm[4]. Là chiếc túi gấm đựng quân cờ của cha mà có lần hai mẹ con từ làng lên huyện, đi bộ mất nửa ngày trời chỉ có mỗi việc đưa ông thân chiếc túi ấy thôi. Là chiếc gối xứ tàu xưa kia cha Thái đã đặt mái tóc sương ngày lui về...

Thiên nhiên làng quê và cách sinh hoạt của người dân quê cũng đem đến cho Thái nhiều cảm giác thật dễ chịu. Khi là làn gió mát ở ao sau lùa vào song cửa, thoảng mùi hoa chanh. Khi là mùi hương đất khiến Thái có cảm tưởng hơi đất thơm chuyển vận mạch máu anh mạnh hơn. Khi là cây sung già “thân đã khô quặn lại, nhưng quả lớp này tiếp theo lớp khác vẫn còn xanh mọng và lớp lá dầy tươi tốt đang reo rào rào trên đầu Thái[5]. Khi là chậu nước mưa trong vắt, mát rượi làm dịu vầng trán nóng. Rồi chiếc lược chải tóc bằng gỗ của Dậu, bữa cơm gạo đỏ với canh mướp nấu cua, sung muối, cháo khoai, bún đậu... Tất cả đều tạo nên ở Thái những cảm xúc mới mẻ, khác hoàn toàn với bát cơm gạo tám trắng như bông, những món thịt xào hạnh nhân, gà rán, canh nấm Chapa, bóng thủ, giò lụa; những đôi đũa bịt bạc, bát mẫu Giang Tây bày trên chiếc mâm đồng đánh bóng... của vợ Thái.

Nhưng điều làm cho Thái thực sự cảm động là sự nâng niu, trân quý, gìn giữ của ông Bút đối với những kỷ vật của gia đình: “Bức hoành phi nền gấm, những đôi câu đối vàng son nước sơn tuy đã cũ, nhưng nét chữ do ông thân Thái viết vẫn còn lưu giữ cái tài và cái tình của một ông chủ khoa lỗi lạc. Chiếc túi gấm đựng quân cờ của ông thân anh do tay bà mẹ anh khâu, ông Bút vẫn còn kính cẩn treo bên cái quang xách làm bằng trúc[6]. Ngay cả chiếc mâm vuông chân quỳ sơn non và chiếc lồng bàn thép cũ do mẹ Thái sắm ngày xưa vẫn được ông Bút giữ gìn, chưa hề hư hỏng.

Tất cả những điều này đã tạo nên một cảnh giới khác hoàn toàn với môi trường Thái vẫn sống lâu nay. Nó khiến Thái đi đến một quyết định gây bất ngờ cho ông Bút và cả vợ Thái là ở lại nhà: “Không những sửa chữa lại nhà cửa, tôi còn chung sức với ông bón xới những miếng đất còn bỏ không kia để trồng các thứ rau[7]. Bằng quyết định này, Thái đã tự điều chỉnh lại vị thế của bản thân. Nước da với những đường gân xanh nổi rõ dần chuyển sang màu dám nắng khỏe khoắn. Trong mắt ông Bút, Thái không còn là một cậu chủ bội bạc và vô dụng, “chỉ về để phá hoại mảnh đất này”, mà trở thành người kế thừa và tiếp tục tạo dựng gia tài cha mẹ để lại. Vợ Thái và ba đứa con trai ở thành phố cũng không còn giữ vị trí trung tâm của gia đình như trước đây, mà chỉ sau ít lâu đã phải chủ động về quê thăm Thái. Trong cuộc tìm lại chính mình của Thái, sinh thái thôn quê giữ vai trò quyết định.

Cũng ở môi trường nhà quê, Thái có điều kiện để nhìn nhận một cách bình đẳng về mọi người xung quanh. Thái thấy giữa vợ mình và những người quê như ông Bút, cô Dậu, có nhiều điểm khác biệt. Ông Bút sống ở nhà quê, hiền lành đến nỗi “với ai, ông cũng nhịn. Nhịn từ con chó đến đứa trẻ trong xóm, ngoài làng”. Thái thường thấy ông điềm đạm “dạ” khẽ hay “nín lặng” ngay cả khi vợ Thái đay nghiến những điều không đáng. Ông yêu đất đai, ruộng vườn bằng một tình yêu máu thịt. Ông đã đổ ra biết bao nhiêu công sức để từ đất, sự sống được sinh sôi: “Những ngọn cau sai buồng, những cây bưởi, cây cam trĩu quả... cả một khu trại lá xanh reo sự sống. Chính ông đã gây sự sống cho cây cối, chính ông đã gây màu cho đất cát. Chính ông từ ba mươi nhăm năm nay đã trần lực ra khai nhát cuốc đầu tiên, biến một khu đất cỏ đầy ra một mảnh đất phì nhiêu, cây cối tốt tươi như ngày nay[8]. Dậu – con gái ông Bút – vừa hồn nhiên, tươi trẻ, như cái cây tràn đầy nhựa sống; vừa ý tứ, tế nhị. Tuy chênh lệch về tuổi tác, trình độ, địa vị, nhưng giữa Thái và Dậu có sự đồng điệu trong tâm hồn, cùng hướng đến và trân trọng những giá trị đích thực của đời sống, những điều chỉ có thể hiểu và cảm nhận bằng tâm hồn trong sáng, tình nghĩa, vượt lên trên những giá trị vật chất tầm thường. Trong khi đó, Nghĩa – vợ Thái – luôn sẵn lời mắng mỏ, miệt thị, khinh khi. Đức thực thà, nhẫn nhịn, trung thành của ông Bút, Nghĩa không biết đến. Trong mắt Nghĩa, Dậu chỉ là một đứa đầy tớ, hay con của một kẻ đày tớ mà thôi. Đối với Nghĩa, việc hưởng thụ những vật chất đủ đầy và sang trọng là lạc thú lớn nhất của cuộc đời. Thái biết rõ căn nguyên của nó: “Người đàn bà ấy xuất thân ở một gia đình cổ, cha ông khởi nghiệp bằng hai bàn tay trắng trong nghề buôn bán. Cô gái, bé bắt đầu lẫy, bò, rồi ngồi, rồi đi trên đống bạc; nhớn, đi học qua quít vài ba năm cho đến hăm hai tuổi lấy chồng, cô gái con buôn suốt ngày chỉ nghe đến chuyện thêm cân bớt lạng, thề gian hứa dối; suốt tháng chỉ nhìn những cái hạng người, hạng vật thuộc về sự lờ lãi, thiệt hơn, thì làm gì còn có tình cảm tế nhị, làm gì còn có lòng nhân hậu, nhân ái nữa.”[9]. Với “người đàn bà của số kiếp” ấy, cuộc sống của Thái là một chuỗi những tháng ngày u tối, quằn quại, cách biệt... Vậy nên, việc quyết định ở lại nhà, ngoài mục đích giữ gìn di sản cha mẹ để lại, Thái còn muốn được trở về sống là chính mình, trong cái bầu khí quyển mà Thái đã từng sống (một gia đình mà ông bố làm quan nhưng nhà vẫn túng nghèo, bà mẹ vợ quan mà không bao giờ nghĩ đến sự hưởng thụ cuộc đời trưởng giả, không hề sống một ngày ở huyện với chồng), để không phải “hằn học sống, điên cuồng sống” trong sự bất công, ích kỷ và thói trưởng giả kiêu bạc. Cuối cùng, chính trong cảnh giới làng quê, sau khi đã cảm nhận thật sâu những vẻ đẹp nguyên sơ, trong trẻo cùng những uẩn ức, nỗi u buồn của nó, Thái với tư cách một trí thức, đã cân bằng được mối quan hệ giữa mình với thế giới, đã tìm thấy được sức mạnh tư tưởng của mình: “Thái nghĩ đến một quyển sách, ước ao có ngày viết được. Cuốn sách sẽ không là váng nước, bọt mưa lâu nay Thái thấy rất nhiều ở các thư quán. Cuốn sách phải là xương máu những cuộc đời[10].
Tương tự như gia cảnh hiện tại của Thái, Vĩnh – bạn thân Thái, có một “gia đình lộng lẫy” ở Hà Nội với một “ông bố chỉ khoái ngồi ngắm đôn Tàu, chóe cổ; mẹ thì chỉ thích xếp bằng tròn như đụn rạ trên sập gụ khảm để cho vay và khoe bằng cấp của anh con trai nhỏ, cơ nghiệp của anh con trai lớn; còn người chị thì tự nhiên rẫy chồng chê là đào mỏ để bây giờ về ngự xe nhà giúp bà mẹ đi thúc nợ, ngồi vắt vẻo ở sa lông để phê bình quần áo của lũ giai gái lượn qua trước cửa.”[11]. Nhưng cuộc sống đó không hề làm cho Vĩnh thấy hạnh phúc, trái lại, nhiều khi vì nó mà Vĩnh phát xấu hổ và phải trốn chạy. Trong mắt Vĩnh, cuộc đời Diễm – người bạn nghèo khổ về vật chất mà giàu có về tư tưởng, tâm hồn – mới là cuộc đời đáng sống: “Thằng Diễm như ốc bể trôi dạt trên bãi cát, bé nhỏ thế thôi, mà trong lòng nó chứa đựng cả sóng gió của biển”; “Nó mới đáng là một con người đúng nghĩa. Cơm rau áo vải, học lực cao, kiến thức rộng, từng trải lại nhiều. Nó sống như cây thông. Mình là lau, là sậy![12].

Khác với Thái và Vĩnh, cha Thái ngay từ khi còn ở chốn quan trường, đã nhận thấy nó chẳng có gì vui cả, “chẳng ra làm sao cả”. Gặp vợ con từ làng lên huyện thăm chồng, ông chỉ hỏi han và dặn dò: “Cái gốc mai bên tường hoa, bà nhớ dặn ông Bút bón tưới luôn mới được. Cái bụi trúc ao sau nữa, trận bão vừa rồi có bị hại không? Bụi trúc Nga my hiếm lắm đấy, tôi chỉ lo bờ ao lâu ngày sụt lở, hỏng mất thì đáng tiếc[13]. Còn mẹ Thái, trước đề nghị của chồng là để con ở lại với mình cho vui, bà trả lời: “Nên cho con nó ở làng, ông ạ. Cái sinh khí ở đây tôi nghe không thuận cho sự giáo huấn con trẻ”.

Có thể thấy, ngữ cảnh sinh thái trong tiểu thuyết này của Ngọc Giao chính là thời hiện đại, là bối cảnh đô thị hóa, tư sản hóa đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đã tiến hành khai thác thuộc địa. Lối sống tư sản với tinh thần hưởng thụ và chủ nghĩa tiêu dùng đã hình thành tại các đô thị lớn. Nhiều người đã nghe theo tiếng gọi của đời sống vật chất thường thấy nơi thành thị mà quên mất cuộc sống bình dị, mộc mạc, gần gũi với tự nhiên ở nhà quê. Trong môi trường đô thị, trở thành những kẻ nghiện hưởng thụ tầm thường, con người cũng mất luôn những căn tính sơ khởi của tâm hồn. Vợ Thái và những người như bà Vĩnh Thịnh, bà Tham Chương, bà Quảng Phát, cha mẹ Vĩnh... thuộc vào loại “con người không thể độ qua u nhã được nữa, con người mất đi sức mạnh cổ điển và siêu việt về tinh thần, con người chỉ là dã thú có cái đầu văn minh thục mạng trong thế giới tham vọng vật chất[14]. Trong ngữ cảnh ấy, Nhà quê có ý nghĩa phản tỉnh một xu thế nổi lên khá rõ đầu thế kỷ XX là tập trung về đô thị - nơi mà phần đông những người thất nghiệp, đói ăn cho rằng họ có thể dễ dàng kiếm sống và phần đông trí thức tiểu tư sản cho rằng họ sẽ có điều kiện để phát huy hết những năng lực nhân tính của mình. Như thế, tuy không trực diện bàn tới các vấn đề dễ nhận thấy của văn học sinh thái, nhưng tác phẩm của Ngọc Giao đã thể hiện một trí tuệ sinh thái, một tư duy sinh thái ở chiều sâu.

2. Chiến tranh không chỉ tàn phá sinh thái tự nhiên, mà còn hủy diệt cả sinh thái tinh thần của con người
Ngữ cảnh sinh thái trong tiểu thuyết Đất của Ngọc Giao lại là cuộc xâm lược lần thứ 2 của thực dân Pháp vào đất nước ta. Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết là Xã Bèo – một người nông dân cần cù, lam lũ và yêu đất hơn cả sự sống của chính mình. Xã Bèo xuất thân nghèo túng, nhờ chăm chỉ và ra sức dành dụm, chắt bóp, lại thêm “được mồ được mả ra sao” mà mới có một năm trời trở lại đã tậu được vài sào ruộng tốt, mua được con trâu, ngâm bè tre và nay lại mới tậu được thêm mảnh vườn bương nữa. Nhưng niềm vui rửa nhục vì lời nguyền của Trương Dần năm nào chưa kịp hưởng, Xã Bèo đã nhìn thấy lửa chiến tranh cháy đến làng mình. Cảnh tượng ấy làm cho Xã Bèo vô cùng khiếp sợ, đau đớn. Ngay lập tức, Xã Bèo hình dung ra một tương lai của sự hủy diệt, tất cả mọi sinh mệnh rồi sẽ chết:

... “Anh ngao ngán thấy rằng binh lửa rồi sẽ tới, thui trụi, tàn phá hết, huống hồ là mấy chiếc măng non.”
Về đến cổng, con Mực chạy ra đón, anh đứng lại. Tự nhiên anh thấy thương con vật, bởi vì anh mang mang nghĩ đến cái chết chóc sẽ chẳng tha từ mạng con chó đến con người”.

Anh Xã không vào sân vội, đi tắt qua vườn sau nhà đến chuồng trâu. Anh lại đứng vững nhìn con vật thân yêu của mình, và lo sợ nghĩ đến một sớm mai người ta sẽ bắt nó đem đi mổ thịt hay nó sẽ ngã xuống vì một viên đạn trong những viên đạn vừa xuyên qua bao nhiêu mạng con người vô tội[15].
Xã Bèo lủi thủi dạo quanh vườn. Mấy luống rau cải tốt xanh trên mảnh đất xốp tươi, vợ chồng anh đã dầy công tưới bón thế mà chưa chắc kịp ăn. Những buồng chuối tiêu đang mẫm quả, anh vẫn để dành chưa chịu ngả. Mấy cây na, cam, hồng bì được chăm bón phân gio, năm nay bói quả, thế mà một sớm mai đây, những gót giày “khách lạ” sẽ đạp séo tan tành[16].

Có thể nhận thấy ở nhiều trang mở đầu tiểu thuyết một cảm xúc gần như là tột cùng của sự đau đớn. Nỗi đau của Xã Bèo không chỉ xuất phát từ niềm tiếc của hoài công vì thành quả lao động bao năm của mình, của gia đình bỗng chốc thành mây khói, mà còn từ cả niềm tiếc thương cho những sự sống đang xanh tươi mơm mởm bỗng tan tành, chết chóc. Trong lý thuyết phê bình sinh thái, thái độ đó gọi là “sự đối xử công bằng với tất cả các sinh mạng”, thuộc phạm trù “luân lí học tôn trọng sinh mạng”. Càng nâng niu, trân trọng sinh mạng, Xã Bèo càng đau đớn khi nguy cơ sự sống bị hủy diệt hiển hiện trước mắt. Rất nhiều từ ngữ đã được dùng để chỉ trạng thái đau đớn cùng cực đó của Xã Bèo: “khiếp hoảng”, “rùng mình”, “quặn đau”, “mặt nhợt nhạt, miệng há hốc”, “lảo đảo bước ra sân”... Sợ đến nỗi, Xã Bèo gần như không còn thiết sống: “Tôi chẳng còn thiết gì đời nữa. Tình cảnh này, không chết nay cũng chết mai thôi”. Niềm xót thương dành cho tất cả các sinh mạng ấy, cũng chính là tình yêu sự sống thiết tha của Xã Bèo. Cũng bởi tình cảm ấy mà ngay cả việc đi phá đường mỗi đêm, với Xã Bèo, cũng là một sự cực chẳng đã, khổ sở vô cùng.

Nhưng bấy nhiêu vẫn còn chưa đủ, lệnh tiêu thổ kháng chiến và di cư mới thực sự là cú trời giáng. Xã Bèo, Lý Còng và bao nhiêu người đàn ông ở làng Nguyệt Đức đã gần như điên dại khi phải tự tay phá dỡ, tiêu hủy những căn nhà từng được dựng nên bởi mồ hôi nước mắt của mình: “Xã Bèo khổ não kêu trong cuống họng nghẹn uất, tiếng kêu giời xoáy nghiến trong đầu óc đang bốc cháy, anh vùng đứng lên như điên dại: - Cho nó mất cả đi, thế là xong hết”, Lý Còng thét to: “- Này tôi đốt đây này, bà con làng nước ôi, tôi đốt nhà tôi đây này![17]... Theo đó là biết bao nhiêu nước mắt đã nhỏ xuống. Biết bao nhiêu thứ tiếng khóc của đàn ông, đàn bà, người già, trẻ nhỏ, khi nghẹn ngào, khi nức nở... đã cất lên: Chị Xã “khóc sưng cả mắt, khóc suốt đêm qua”, “bác Lý gái khóc rống lên như nhà có đám tang”, “Lý Còng ngồi thừ ra nhìn lửa cháy trên đất nhà mình, nước mắt ròng ròng rơi xuống má”...

Sự tàn phá, hủy diệt các sinh mệnh đã dẫn tới một sự phá vỡ nghiêm trọng môi trường sống của con người. Xã Bèo sau khi tiêu thổ đã dắt díu mẹ già, vợ ốm, con thơ đem theo bu gà, con trâu, ba bốn gánh gồng nồi niêu chăn chiếu, tìm nơi lánh nạn. Bước chân rời khỏi làng Nguyệt Đức, lòng chị Xã đầy lưu luyến: “Chị Xã một bước một ngừng. Cứ mỗi lần đổi vai gánh nặng, chị lại quay nhìn mấy ngọn cau vườn nhà chị nhô lên khỏi rậu tre làng phơ phất trong sương gió sớm[18]. Trong cuộc thiên di đầm đìa nước mắt, vợ chồng Xã Bèo đã chứng kiến một cảnh tượng loạn lạc, hoang tàn chưa từng thấy: “bốn bề cây đổ, nhà hoang, tường xiêu, mái rỡ”, “người chạy loạn từng toán một đi rải rác, áo tơi nón lá, trẻ già, thơ dại dắt díu như những đàn kiến chạy nước to”... Mặc cảm bơ vơ, lạc lõng, sợ sệt in hằn trên mỗi dấu chân đặt lên đất khác và vỡ oà thành tiếng khóc nhớ nhà, nhớ quê nức nở trong lòng: “anh muốn khóc lên, khóc rõ to cho vợi cái đau buồn tha hương đất khách lúc này”. Nhưng điều làm cho Xã Bèo khổ sở nhất là nỗi nhớ đất: “Ngày ngày đi đẵn củi rừng làm cái nghiệp chú tiều, tối về nằm co nhớ nhà, nhớ đất, - chao ôi đất! - đất là xương là máu của đời anh[19]. Không chỉ Xã Bèo nhớ đất, anh hình dung cả con trâu cũng thèm đất. Vợ con anh nữa, từ lâu đã bỏ luống cày, gốc mạ, hương lúa chín...

Hơn một năm trời ở miền rừng sâu núi thẳm, không chịu đựng nổi bệnh tật, đói khát, cộng thêm nỗi nhớ quê nhớ đất cồn cào, gia đình Xã Bèo lại dắt díu nhau hồi cư. Trở về làng khi Nguyệt Đức đã chuyển thành vùng tề, Xã Bèo đau xót chứng kiến cảnh hoang tàn đổ nát: “Ruộng đất của vợ chồng anh đã thành bờ bãi cho cỏ mọc tung hoành, lại ngổn ngang mồ mả[20]; rồi: “Bước chân qua cổng cái, Xã Bèo thấy lạnh người vì quang cảnh tiêu điều của xóm làng. Anh đứng sững nhìn bức tường nhà Hội Đồng lỗ chỗ nhiều vết đạn tròn như lỗ đáo[21]. Cuộc sống ở vùng tề vừa đói khát, thiếu thốn, vừa sợ hãi đến nghẹt thở vì súng đạn, bắt bớ, cướp bóc... khiến sự sống của con người thường xuyên bị đe dọa. Nhưng vì yêu đất, vì muốn gắn bó với đất, Xã Bèo cam chịu sống trong kìm kẹp. Cuối cùng thì con trâu – con vật mà Xã Bèo “sống vì nó, với nó, cũng như anh ham sống, cần sống với cha mẹ, vợ con” – cũng bị lính tề cướp mất, vợ chồng Xã Bèo đau đớn đến phát dại. Lại phải bỏ làng đi, nhưng không thể rời xa đất, Xã Bèo xót xa nhìn vợ thay trâu rỏ nước mắt vào lòng đất mà không khóc nổi, bởi không còn nước mắt.
Từ tiểu thuyết này có thể thấy, chiến tranh chính là một loại căn nguyên của thảm họa sinh thái. Chiến tranh không chỉ tàn phá sinh thái tự nhiên, mà còn hủy diệt nghiêm trọng sinh thái tinh thần của con người. Quá nhiều nước mắt của vợ chồng Xã Bèo đã rớt xuống. Nói cách khác, đọc tác phẩm, chỉ cần thống kê những tiếng khóc của Xã Bèo là đủ thấy chiến tranh đã đày đọa sự sống của người ta khủng khiếp thế nào. Xã Bèo thấm thía hơn ai hết nỗi thống khổ mà chiến tranh đã đưa tới. Bởi vậy, tác phẩm cảnh báo con người về một đạo đức sinh thái: Vì sự sống bình yên của các sinh mạng, hãy chấm dứt mọi sự hủy diệt, nhất là hủy diệt bằng bom đạn chiến tranh. 

Nhìn chung, hai cuốn tiểu thuyết của Ngọc Giao bàn đến hai ngữ cảnh và những nguy cơ sinh thái khác nhau, nhưng cả hai đều có chung một xuất phát điểm: coi trọng sự sống trong môi trường sinh thái đích thực của nó. Từ xuất phát đó, có thể nhận thấy hai khía cạnh cơ bản trong tinh thần sinh thái của Ngọc Giao là tôn trọng mọi sự sống và để cho mỗi sinh mạng được sống đời sống của chính mình. Không có chủ nghĩa nhân loại trung tâm trong cảm thức sinh thái của Ngọc Giao. Với những luận điểm cơ bản như vậy, từ góc nhìn văn hóa sinh thái, tác phẩm của Ngọc Giao có khả năng đánh thức nhân tính trong ứng xử với môi trường, bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, nhất là trong bối cảnh tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa vẫn chưa có dấu hiệu chậm lại và nhiều cuộc chiến tranh vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt như hiện nay.

LÊ TÚ ANH
 (Bài in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế
Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2017)


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.  Lê Tú Anh – Vũ Thị Thủy, Đóng góp của Ngọc Giao vào thành tựu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Hồng Đức, Số 16, 2013, tr.5-10.
2.  Ngọc Giao, Nhà quê, tiểu thuyết, Nxb Hà Nội (tái bản), Hà Nội, 2011.
3.  Ngọc Giao, Đất, tiểu thuyết, Nxb Cây thông, Hà Nội, 1950.
4.  Văn học sinh thái và lí luận phê bình sinh thái, Đỗ Văn Hiểu dịch từ cuốn Đương đại Tây phương tối tân văn luận giáo trình của Vương Nhạc Xuyên, Nxb Đại học Phúc Đán, Thượng Hải, 2008. Nguồn: http://www.dovanhieu.net/2015/08/van-hoc-sinh-thai-va-li-luan-phe-binh.html


[1] Các nhà nghiên cứu sinh thái cho rằng, tác phẩm Mùa xuân im lặng (1962) của nhà sinh vật hải dương học người Mỹ – R.Carson (1907-1964) là công trình mở đầu cho thời đại văn học sinh thái.
[2] Ngọc Giao, Nhà quê, tiểu thuyết, Nxb Hà Nội (tái bản), Hà Nội, 2011, tr.18.
[3] Ngọc Giao, Nhà quê, sđd, tr.21.
[4] Ngọc Giao, Nhà quê, sđd, tr.28.
[5] Ngọc Giao, Nhà quê, sđd, tr.31.
[6] Ngọc Giao, Nhà quê, sđd, tr.35.
[7] Ngọc Giao, Nhà quê, sđd, tr.40.
[8] Ngọc Giao, Nhà quê, sđd, tr.24-25.
[9] Ngọc Giao, Nhà quê, sđd, tr.54.
[10] Ngọc Giao, Nhà quê, sđd, tr.189.
[11] Ngọc Giao, Nhà quê, sđd, tr.70.
[12] Ngọc Giao, Nhà quê, sđd, tr.70.
[13] Ngọc Giao, Nhà quê, sđd, tr.36.
[14] Vương Nhạc Xuyên, Đương đại Tây phương tối tân văn luận giáo trình Nxb Đại học Phúc Đán, Thượng Hải, 2008. Dẫn theo Đỗ Văn Hiểu.
[15] Ngọc Giao, Đất, tiểu thuyết, Nxb Cây thông, Hà Nội, 1950, tr.13-14.
[16] Ngọc Giao, Đất, sđd, tr. 22-23.
[17] Ngọc Giao, Đất, sđd, tr.53-54.
[18] Ngọc Giao, Đất, sđd, tr.111.
[19] Ngọc Giao, Đất, sđd, tr.197.
[20] Ngọc Giao, Đất, sđd, tr.326.
[21] Ngọc Giao, Đất, sđd, tr.329.


Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2019

CÁI ĐỌC VỚI NGƯỜI VIẾT

Theo cách hiểu thông thường, đối với một người sáng tác văn chương (người viết) bất kì, đọc nằm ở quá trình “nạp”, còn viết là “xả”, là “trút” cái sự ngấm từ việc đọc của mình vào một sáng tạo ngôn từ mới mẻ…
Đọc và viết, hiển nhiên đó là hai hoạt động khác nhau, chứ không phải một. Theo cách hiểu thông thường, đối với một người sáng tác văn chương (người viết) bất kì, đọc nằm ở quá trình “nạp”, còn viết là “xả”, là “trút” cái sự ngấm từ việc đọc của mình vào một sáng tạo ngôn từ mới mẻ. Điều đó cũng có nghĩa là, đối với người viết, đọc và viết tuy khác nhau song lại rất gần nhau. Sự đọc cần cho tất cả những ai yêu chuộng tri thức, yêu chuộng một đời sống tinh thần phong phú; riêng với người viết, đọc trở thành một điều kiện mang tính cốt tử nếu người viết thực sự muốn sống chết với nghề viết, thực sự muốn tạo lập những giá trị văn chương có thể không bị bụi thời gian che phủ; nói cách khác, phải đọc, nếu người viết muốn hiện diện với tư cách một người viết chuyên nghiệp.

Không có gì khó hiểu khi người viết chuyên nghiệp bị điều kiện hóa bởi việc đọc. Hãy thử chứng minh điều đó bằng những giả định.

Trước hết, nếu không đọc (hoặc ít đọc) người viết sẽ chỉ có thể viết bằng chút ít tài năng trời cho (với điều kiện là anh ta có thứ tài năng ấy, tất nhiên) và bằng những kinh nghiệm đời sống hết sức hữu hạn của riêng mình, chứ không phải bằng bề dày của cái vốn liếng văn hóa về văn học. Thực tế cho thấy, cái vốn liếng văn hóa về văn học này chính là nguồn “nhiên liệu” giúp cho một người viết đi bền, đi xa trên con đường văn chương thiên lí. Không có nó, may ra người viết chỉ đạt được một vài thành công ban đầu rồi sau đó nhanh chóng lê mình trong bóng tối của sự lặp lại chính mình, cũ kĩ và nhàm chán.

Thứ hai, nếu không đọc (hoặc ít đọc) người viết sẽ không thể biết được ở cái thế giới văn chương ngoài mình, người ta đã và đang viết như thế nào, làm được những gì, tiến đến đâu. Và do vậy, rất dễ xảy ra một bi hài kịch là người viết sẽ tự thỏa mãn với việc mở những cánh cửa đã được mở rồi, đi trên những con đường đã trở thành lối mòn, để rồi đến lúc phát hiện ra sự thực, anh ta sẽ phải sống trong tâm trạng vỡ mộng đầy chán nản.

Thứ ba, nếu không đọc (hoặc ít đọc) người viết sẽ không thể có niềm hạnh phúc đặc thù đối với một người viết là được gợi ý, được kích thích tiềm năng sáng tạo trong chính mình từ những sáng tạo của người khác. (Tôi không nói đến việc học theo, bởi với những người viết có bản lĩnh, học theo, ngay trong trường hợp tốt nhất, cũng chỉ là hành vi tự biến mình thành bản dập của những người khác. Tôi nói tới việc được gợi ý, được kích thích, và tôi nhớ đến nhà văn Nguyễn Huy Tưởng khi ông viết trong nhật kí, năm 1933: “Ta đây tuổi còn trẻ, tính còn ngây thơ, đọc sử Bình Nguyên mà lòng yêu quý non sông phơi phới, trong lúc thán phục các vị anh hùng, muốn nêu các vị vào khúc anh hùng ca để truyền về hậu thế, cho muôn nghìn đời soi vào. Than ôi! Công nghiệp không phải là dễ, mà ta vốn là kẻ ngu muội, há có thể đảm đang mà nhận cái chức làm thi sĩ của non sông như Homère của Hi Lạp, Virgile của La Mã, Camoens của Bồ Đào không?”).

Tuy vậy, cũng không hiếm người quan niệm (thường là ngấm ngầm chứ rất ít khi công khai) rằng người viết chỉ nên đọc một cách… vừa phải thôi, nếu không, chưa biết chừng lợi bất cập hại. Họ giải thích, đọc thì có ích thật đấy, nhưng nó sẽ khiến cho phần “nhân vi” nơi người sáng tạo dày lên và làm mỏng đi cái phần “tự nhiên” tươi tắn, trinh nguyên, rốt cuộc là cái được không bù đủ cái mất. Một lí do khác cũng thường được dùng như cột đỡ cho quan niệm này, là việc đọc nhiều, trong nhiều trường hợp, sẽ khiến người viết dễ bị “ngợp”, và sợ, và rồi không dám viết nữa. Vì nhìn chân trời nào cũng thấy có người bay (và có không ít người bay khổng lồ), nhìn con đường nào cũng thấy chi chít những vết chân (và có không ít những vết chân như tạc vào đá). Kiến bò miệng chén, có loay hoay mãi cũng sẽ chẳng đi đến đâu; đến nước như vậy cũng là do sự đọc mà ra!

Về quan niệm này, xin được bình luận một cách ngắn gọn, đó là con đẻ của một thứ chủ nghĩa mà tôi tạm gọi là “sáng tạo trong sự vô minh”. Người ta tự ru ngủ mình bằng sự khước từ việc phải nhìn vào người khác, theo cách nói của K.Marx, như nhìn vào một tấm gương để thấy bản lai diện mục của mình trong đó. Hậu quả của chủ nghĩa “sáng tạo trong sự vô minh” này, như tôi đã nói ở trên, là đến một ngày đẹp trời (hoặc xấu trời) nào đó, khi nhận ra sự thực, người viết sẽ phải sống trong một tâm trạng vỡ mộng đầy chán nản (vì anh ta biết mình là người thứ n ví người đẹp với bông hoa!).

Nói chung, với những người viết có tài năng, có bản lĩnh, việc đọc chẳng bao giờ là thừa. Càng đọc nhiều càng tốt. Bằng cái đọc, anh ta sẽ biết được trong thế giới văn chương tự cổ chí kim có biết bao tượng đài, anh ta sẽ biết được kích thước thực sự của những tượng đài ấy. Biết để kính trọng, chứ không phải biết để khiếp sợ. Biết để nuôi trong mình niềm khát khao vươn tới trở thành một tượng đài mới, chứ không phải biết để trở thành bản dập của một tượng đài đã có (điều này tôi cũng đã nói ở trên qua trường hợp của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng) hoặc để bị tượng đài đó làm cho nghẹt thở. Một ví dụ cho chuyện này, khi mới bước chân vào sáng tác văn chương, Victor Hugo tuyên bố rất hùng hồn: “Là Chateaubriand, hoặc không là gì cả”. Dĩ nhiên là phải đọc Chateaubriand thì Hugo mới nói như vậy. Nhưng sau rốt, như thực tế lịch sử văn chương lãng mạn Pháp cho thấy, Hugo đã vượt qua thần tượng thuở thiếu thời của mình một khoảng rất xa.

Liên quan tới câu chuyện về cái đọc đối với người sáng tác văn chương (người viết), xin được nhắc qua một chút tới những nghiên cứu gần đây của hai tác giả Việt Nam: Ngô Tự Lập (“Điển tích và sự mở rộng khái niệm điển tích”, “Văn chương như là quá trình dụng điển” - trong sách Minh triết của giới hạn, Nxb Hội Nhà văn, 2005) và Nguyễn Thị Từ Huy (sách Alain Robbe Grillet: Sự thật và diễn giải, Nxb Hội Nhà văn & Đại Việt Books, 2009).

Ngô Tự Lập quan niệm điển tích bao gồm cả điển tích văn chương và điển tích đời sống, và sáng tác văn chương (viết) chính là quá trình mà người viết buộc phải dụng điển, hoặc cái này hoặc cái kia hoặc cả hai. Quan niệm về điển tích như vậy dường như hơi rộng (chữ “điển” tự thân nó đã mang một nghĩa hết sức cụ thể: sách vở). Nhưng ít nhất, ở khía cạnh điển tích văn chương, nó khẳng định một sự thực rằng đã là người viết thì phải đọc, như một bắt buộc. Trong văn học trung đại (Trung Quốc và Việt Nam) chúng ta thấy rất rõ điều này. Truyền thống của văn học trung đại khiến cho một người viết sẽ trở nên rất “nhẹ đồng cân” nếu anh ta không dụng điển khi viết, nói cách khác, nếu trong cái viết của anh ta không phản ánh cái đọc. Vấn đề ở đây không đơn giản chỉ là sự “khoe” kiến văn của người viết, mà còn là, và chủ yếu là việc dụng điển sẽ tạo ra một tác động thẩm mĩ đặc thù trên người đọc. Đọc một văn bản, qua những điển tích được người viết sử dụng, người đọc sẽ được sống trong một mạng lưới những dẫn chiếu rất phong phú tới những văn bản khác (lí luận hiện đại gọi đó là liên văn bản). Anh ta tự tìm lấy những sắc thái nghĩa của điển tích (cũ) trong khuôn khổ của văn bản (mới) và anh ta sẽ được hưởng khoái thú của việc hiểu và trở thành kẻ đồng sáng tạo với tác giả. Điều đó cũng lặp lại trong văn học hiện đại. “Những người không đọc văn học cổ Việt Nam và Trung Quốc không thể cảm nhận hết cái hay của thứ văn được Nguyễn Huy Thiệp khai quật và phả vào một tinh thần mới trong Vàng lửa hay Kiếm sắc. Thậm chí nhiều tên nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp cũng chứa đựng những ám chỉ mà khó một dịch giả nào có thể chuyển tải trọn vẹn đến cho những người đọc không được chuẩn bị” (Ngô Tự Lập, sđd, trang 70-71). Nhưng trước khi người đọc tự trang bị cho mình để tiếp cận với văn bản, thì hiển nhiên là người viết phải đọc, phải ngấm đến cùng các giá trị của văn chương quá khứ cái đã!

Trong nghiên cứu về Alain Robbe Grillet - ông trùm của Tiểu thuyết Mới, một quái kiệt của văn chương phương Tây hiện đại - Nguyễn Thị Từ Huy không nói đến khái niệm “điển tích”, mà nói tới khái niệm “tái diễn”, “tái lặp”. Tôi muốn đơn giản hóa vấn đề bằng cách nói rằng trên một phương diện nào đó, những khái niệm này có sự giao thoa nhất định. Khi đề cập sự phá vỡ diễn giải về lịch sử tính trong tác phẩm của Robbe Grillet, Nguyễn Thị Từ Huy nêu vấn đề: “Trong việc hiểu tác phẩm, những nghiên cứu về thời đại của tác giả còn có ý nghĩa gì khi mà không gian sống của nhân vật được miêu tả cùng một cách thức như trong văn bản của một tác giả khác ở một thế kỉ trước? Bối cảnh lịch sử liệu còn có ý nghĩa gì khi mà nhân vật được miêu tả như là con người của mọi thời?” (Nguyễn Thị Từ Huy, sđd, trang 371). Và đưa ra dẫn chứng: “Chẳng hạn, bối cảnh của Tái diễn (một tác phẩm của Robbe Grillet) không được xác định bằng giai đoạn lịch sử lúc cuốn sách được viết ra - cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI - cũng không phải là giai đoạn lịch sử lúc câu chuyện diễn ra: tháng 11 năm 1949. Nhờ những dấu hiệu cụ thể, có thể nói bối cảnh của nó trên thực tế được tạo thành bởi Tái diễn của Kierkegaard, Oedipe làm vua của Sophocle, Câu cầu của Kafka, bởi các tác phẩm trước đó của Robbe Grillet, đặc biệt là Những chiếc tẩy và bộ ba tác phẩm có tính tự thuật” (sđd, trang 373). Nhà nghiên cứu lí giải điều đó: “Trong quan niệm của Robbe Grillet, đó luôn là cùng một câu chuyện, được viết bởi nhiều tác giả khác nhau, qua nhiều thời kì khác nhau, và mỗi phiên bản xuất hiện như một cái gì đó mới mẻ. Viết tạo ra một không gian chung nơi cùng tồn tại nhiều cấp độ của quá khứ: quá khứ so với hiện tại, quá khứ gần hơn so với quá khứ xa hơn, và điều đó tiếp tục cho tới khi xóa bỏ cả thời gian tính lẫn lịch sử tính” (sđd, trang 374).

Quan niệm này, như nó thể hiện qua thực tế sáng tác, cùng nhiều quan niệm gây bất ngờ khác của Alain Robbe Grillet đã góp phần mang lại hào quang cho tên tuổi của ông. Nhưng trong câu chuyện cái đọc với người viết mà chúng ta đang bàn ở đây, quan niệm này liệu có thể đi đến đâu, có giá trị hay không nếu nhà văn tiên phong của Tiểu thuyết Mới không “nạp” một khối lượng tri thức đồ sộ nhờ việc đọc? (Hỏi, cũng tức là đã trả lời. Riêng với trường hợp của Alain Robbe Grillet, phải mở ngoặc đơn để nói thêm rằng cái đọc của ông cũng rất đáng tham khảo đối với người viết nói chung, nhà văn này đọc các triết gia nhiều hơn đọc các nhà văn cổ điển. Dường như Milan Kundera và Octavio Paz cũng vậy).

Chẳng ai có thể làm được, sáng tạo được một cái gì đó mới mẻ từ một kí ức trống rỗng. Cái đọc và cái viết đối với một người viết cũng liên quan với nhau theo cách thức như vậy. (Diễn đạt theo cách của J.Kristeva, nhà kí hiệu học nổi tiếng thế giới, thì chẳng có lời nào là lời đầu tiên được nói ra; mỗi lời đều vang vọng trong nó những lời đã được nói ra từ trước đó). Hồi kí hay tự thuật của các nhà văn lớn ở Việt Nam và trên thế giới đều cho thấy họ sở hữu các thư viện lèn chặt sách và họ đã “ngốn” sách vở các loại khủng khiếp đến thế nào. Phần nào đó, họ đã trở thành “lớn” là vì thế. Liệu người ta có thể trở thành nhà văn lớn bằng những con đường nào khác chăng?

HOÀI NAM
Nguồn: VNQĐ


Thứ Năm, 27 tháng 6, 2019

VĂN HỌC VÀ VĂN HỌC HIỆN THỜI QUA MỘT GÓC NHÌN

Như con người, thể trạng văn học cũng chập chờn lúc thăng, khi giáng, lúc khỏe, khi yếu. Thời điểm này, sự tĩnh lặng của văn học gây cảm giác lấp lửng, nửa như nó muốn xa lánh đời sống, lại nửa như nó bị đời sống xa lánh. Như vậy văn học đang đối diện với những vấn đề của mình. Nhìn nhận dưới đây chỉ là ở một, hai khía cạnh nhận thức chủ quan trong tư cách một người viết, cùng với giấc mơ trong tư cách một độc giả.
Nhà văn Nguyễn Bình Phương

1. Một thực tế đang xảy ra theo đúng quy luật, là đội ngũ những nhà văn trực tiếp tham gia chiến tranh hiện nay đã vơi đi một cách nhanh chóng. Kèm đó cũng xuất hiện một đội ngũ nhà văn mới viết về đề tài này, dĩ nhiên là theo cách khác. Chiến tranh trong các tác phẩm văn học trước đây phần đông do người trong cuộc viết vì thế chủ yếu dừng ở mức kể chuyện chiến tranh, và sự thiên lệch là không tránh khỏi, thậm chí nó còn trở thành thế mạnh cuốn hút. Ngay cả hiện nay, sự trở lại của những tác phẩm văn học phi hư cấu, được đón nhận nồng nhiệt cũng là hiện tượng xuất phát từ thói quen thưởng thức những tác phẩm chất phác đầy xúc cảm thiên lệch. Mặc lòng, tác phẩm phi hư cấu vẫn chỉ dừng lại ở tính chất tư liệu dù nó có thể làm thỏa tính tò mò về những sự kiện đã từng chói lói giờ đang khuất chìm.

Thế hệ các nhà văn hậu chiến tiếp cận chiến tranh theo cách khác. Đó là những câu chuyện gián tiếp, những hậu quả của cuộc chiến, những số phận nghiêng lệch vì chiến tranh, những tâm hồn lảo đảo bởi tác động của hủy diệt và điều đáng sợ hơn là những rạn nứt về các phía. Cái nhìn của thế hệ sinh sau chiến tranh khi viết về chiến tranh, nói một cách công bằng, có độ bình tĩnh hơn, khách quan hơn, thậm chí dồi dào tính cảm thông hơn, mặc dù tính chân thực có thể bị hạn chế. Với họ, thể hiện qua tác phẩm, chiến tranh là cuộc sát hạch nhân tính, là cái cớ để nhìn cho thấu các trạng thái hoàn cảnh số phận cũng như tình cảm mỗi cá nhân.

Tuy vậy, cần phải thấy rõ một thực trạng, đó là việc cùng với sự giãn cách trong cảm quan với đề tài nhạy cảm này, xuất hiện yếu tố mà chúng ta gọi là tinh thần giải thiêng. Người chiến thắng không còn được miêu tả như trang anh hùng toàn thiện, toàn mĩ nữa, mà được nhìn theo chiều góc khác, gần gụi hơn với những chứng này, tật nọ, cũng yêu ghét như mọi cá nhân bình thường khác. Điều ấy không những không hạ thấp đối tượng, trái lại còn làm gia tăng tính thuyết phục cho phẩm chất anh hùng và nó tạo ra độ sâu sắc nhất định không chỉ cho bản thân tác phẩm.

Xu hướng giải thiêng có mặt tích cực, nó kéo lịch sử xích gần lại với mỗi cá nhân ở thì hiện tại, khiến cho người phàm có thể ngó mặt thánh thần, nó đưa ra những đánh giá khác, kiến giải khác, góp thêm giá trị cho đối tượng nó đề cập. Giải thiêng phải được chấp nhận với chừng mực nhất định, nhưng nếu đẩy quá lên, giải thiêng để tiến tới hạ nhục, bóp méo, làm lệch lạc bản chất của đối tượng thì lại cần được cảnh báo sớm, thậm chí cần có sự phê phán nghiêm khắc.

2. Văn học, với những gì thể hiện hôm nay, cho thấy đang thiếu một sự ráo riết truy nguyên về đời sống, về tình thế của con người ngay trong thì hiện tại và cả so sánh với lịch sử. Điều này có nhiều nguyên nhân mà chúng ta còn phải tìm cách lí giải, nhưng nguyên nhân trực tiếp, gần nhất chính là do hiện thực của một bộ phận nhà văn, đặc biệt những nhà văn trẻ tuổi đời, đột nhiên bị mất đi, họ chỉ tiếp cận với hiện thực gián tiếp, hiện thực ảo qua mạng cũng như sách vở. Đã vơi dần những hành vi sống đúng nghĩa, là đi và ngã và đứng dậy, và sày vảy. Chính vì thế mà nhiều nhà văn trở nên lúng túng.

Nghệ thuật, nảy mầm trên đời sống thực tại, dứt khoát chỉ trên đời sống thực tại với toàn bộ cảm nhận trực tiếp, trọn vẹn của nhà văn. Và chúng ta cần mở rộng khái niệm đời sống với sự chấp nhận rằng thảy những gì tồn tại trên thế gian này, những gì có trong con người đều là đời sống, ngay cả những giấc mơ và những cơn ảo mộng diệu vợi nhất. Văn học, nếu muốn tồn tại trong độc giả thì cần tiến gần lại đời sống, cần những tiếng nói trực diện, sắc sảo phản ánh, nhận diện, mổ xẻ về các khía cạnh, các vấn đề nóng bỏng của xã hội như đạo đức, văn hóa, lí tưởng và cái đích nó đạt đến dứt khoát phải là cơ hội giải phóng con người khỏi bóng tối của chính nó.

Xét cho cùng, nghệ thuật là cách mà con người vượt qua thực tại của mình để tiến tới một thực tại khác có tính cải thiện cao hơn, dễ chịu hơn, lí tưởng hơn. Nói như thế để thấy rằng văn học không phải dùng thanh toán quá khứ, càng không phải để đạp đổ thực tại. Quá khứ không thể bị vứt toẹt đi khi hiện tại làm người ta phẫn nộ. Và thực tại không thể bị bóp méo, bị kết án, bị chà đạp một cách mù quáng theo góc nhìn nhận phiến diện, thiếu biện chứng. Tiếc thay vẫn có những nhầm lẫn giữa phê phán với đập phá, giữa phản ánh với bóp méo, vẫn có những kích động do nhầm lẫn quyền sáng tạo và lịch sử bỗng nhiên bị tô vẽ đến mức trở nên xệch xoạc.

Ở đây bắt buộc phải đòi hỏi sự công tâm của nghệ sĩ, sự công tâm được đặt lên bàn cân mà trục giữa của nó phải là sứ mệnh của nhà văn gắn với trách nhiệm một công dân, một nhà nhân văn chủ nghĩa. Nếu văn học thiếu trách nhiệm, nó sẽ đi xa khỏi người đọc, xa khỏi đời sống và như thế nó đánh mất uy quyền cùng giá trị thâm sâu của nó. Văn học có nguy cơ trở thành món đồ trang sức, trở thành công cụ cho một bộ phận, một giai tầng nào đó, trong khi về bản chất thì nó không thuộc về bất kỳ tầng lớp nào.

Văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung, là cánh chim bay trên mọi biên giới, nó là bài học về sự vỗ cánh, là tiếng hót báo hiệu tự do còn đang tồn tại và bắt buộc phải tồn tại nếu chừng nào con người còn tự nhận mình là con người. Nhưng trên thực tế hiện nay đã có hiện tượng tự đánh mất tự do ở vài ba khuynh hướng sáng tác. Một số nhà văn, do ngộ nhận quá trớn về quyền tự do sáng tạo đã dẫn tới việc nhăm nhe phủ định những quy định căn bản về nhân tính, phủ định văn hóa truyền thống, coi thường, xúc xiểm thành quả lịch sử của các thế hệ đi trước. Hệ lụy là văn học bị trói buộc vào sự cố chấp, sân hận, khiến cho tác phẩm chỉ còn là những văn bản tranh đấu thô thiển.

3. Tính tự cao tự đại của nhà văn đến lúc cần phải khuất đi để văn học tồn tại một cách có ích. Sự vĩnh cửu, xét cho tận cùng, chỉ còn lại trong những tình thế xã hội cụ thể mặc dù tính dự báo của văn học là tối quan trọng, nhưng tính vĩnh cửu hiếm khi còn lại trong những tưởng tượng xa lạ viển vông. Mọi tìm kiếm, cuối cùng đều là để chạm tới bản chất cốt lõi của hiện thực. Điều ấy cổ xưa và vững chãi như đá. Nhưng ở nơi bon chen nhốn nháo, đá thường bị lãng quên, bị thay thế bằng bê tông màu mè. Tuy nhiên, với sự mẫn cảm của mình, hiện thực đang lặng lẽ giành lại vị trí mà nó thấy cần phải có.

Mộng ảo một thời là sức đẩy cho văn chương bay bổng giờ đây đã đảo cánh trở thành phẩm chất của khoa học công nghệ. Thời điểm này, ngôn ngữ chắc chắn đã không theo kịp sự ảo diệu của công nghệ thông tin, bởi chỉ bằng một cú vuốt thoảng trên màn hình cảm ứng, công nghệ thông tin đã giúp người ta chạm tới những điều mà ngôn ngữ phải mất một khối lượng đồ sộ mới đạt được. Khoa học công nghệ tạo ra những thế giới mới, ở đó mọi mơ mộng đã được cụ thể hóa, ở đó con người có thể sờ vào giấc mơ của chính mình.

Hơn bao giờ hết, vị trí của văn học trở nên mong manh bởi có rất nhiều lí do để đời sống chối từ nó, đặc biệt là thời điểm hiện nay, thời điểm mà tâm hồn con người đang bị phân tán theo tốc độ phát triển khủng khiếp của công nghệ thông tin. Nhưng trong nguy cơ cũng xuất hiện cơ hội. Sự thắng thế của công nghệ thông tin có thể là cơ hội cho các nhà văn, những kẻ được coi là giác quan tinh nhạy của tạo hóa, với một chút cay đắng, ngậm ngùi, rời bỏ bãi bờ phù du để thụ hưởng lại vị chua cay của đời sống trên mặt đất vốn dĩ nó đã từng nếm trải.

Xã hội này, tình thế dân tộc giai đoạn này cần tới làn sóng hiện thực phê phán một lần nữa, như nó đã từng xuất hiện những năm nửa đầu thế kỷ trước. Đương nhiên hiện thực phê phán mà chúng ta cần là hiện thực phê phán đã qua bàn tay tài năng của những tâm hồn tràn đầy tính bao dung, dựng xây, nó không phải là thứ hiện thực sống sít, thô lậu mà nhiều nhà văn đã bê nguyên xi vào tác phẩm của họ với một tâm thế không mấy thiện tín, không mấy sáng sủa.

Văn học là rượu chưng cất từ đời sống. Chất men quyết định cho phẩm hàm của rượu nhưng rượu có thể bị hỏng, thậm chí gây độc khi để tạp chất lẫn vào. Hận thù và ích kỷ là tạp chất đáng sợ trong nghệ thuật. Đây là một trong những thử thách lớn nhất của nghệ sĩ. Văn học tuyệt không phải sự báo oán, càng không phải liều thuốc gây mê cho qua cơn đau. Chính xác, nó là cái giếng ăn thông trời với đất để con người ta có cơ hội nhìn thấy mình sóng sánh trong diện mạo khác, cả trên vợi cao lẫn dưới thẳm sâu, mà vẫn không bị thất lạc bản nguyên. Tính phi phàm của nghệ thuật văn chương nằm ở đây, chính ở đây cũng hàm ẩn những hiểm nguy bởi nó có thể dễ dàng dẫn dụ, xui khiến con người ta, cả độc giả lẫn tác giả, lạc lối và biến mất vĩnh viễn về một phía.

Đành rằng đời sống cứ chuyển trôi không thể ngăn cản, đành rằng khi con người đứng trên mặt đất này thì nó đã có vị trí vững chãi bởi sự hậu thuẫn của tạo hóa. Thế nhưng văn học lại có thể tác động tới đời sống con người, tới tồn tại của con người, bằng cách nhẫn nại nuôi dưỡng giấc mơ cho mỗi cá nhân. Từ thực tại đầy rẫy mâu thuẫn, đầy rẫy bất công, đầy rẫy phẫn nộ, rớm máu và quằn quại, văn học dựng xây những bầu trời để nhân tính rợp bay, khai mở những con đường để độc giả đặt bước chân tưởng tượng của mình lên đó và ngoảnh lại mỉm cười bao dung với đời sống bụi bặm. Nói cách khác, văn học phải cho con người có dịp sống đời sống thứ hai, đời sống mà nhờ đó họ mới biết định lượng tâm hồn họ còn lại ngần nào, còn trong ở mức nào, còn tươi thắm, dào dạt ở mức nào.

NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
(VNQĐ)




PHÊ BÌNH SINH THÁI - VÀI NÉT PHÁC THẢO

Thế kỉ 21 là thế kỉ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, con người phải đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái nhất.

Trong xã hội hiện đại, cùng với tốc độ đô thị hóa và sự ỷ lại vào khoa học kỹ thuật, con người đang ngày càng khai thác tự nhiên quá mức, khiến cho tự nhiên ngày càng cạn kiệt. Thiên nhiên trả thù con người không phải chỉ bằng các thảm họa, thiên tai, các bệnh hiểm nghèo… mà đáng sợ hơn, trả thù bằng sự biến mất của chính nó. Cái “dây chuyền sống” huyền diệu của tạo hóa đang ngày càng bị phá hủy. Phê bình sinh thái (Ecocriticism) nổi lên khi vấn đề biến đổi khí hậu, sự xuống cấp về môi trường không còn là vấn đề của mỗi quốc gia dân tộc nữa, mà đã ảnh hưởng đến toàn bộ sự sống trên trái đất. Văn học quan tâm đến sự sống cho nên xét đến cùng, phê bình sinh thái lại liên quan đến bản thể của văn học.
TS. Trần Thị Ánh Nguyệt

1. Khái niệm phê bình sinh thái

Sinh thái (oikos) theo nghĩa gốc tiếng Hy Lạp cổ là nhà ở, nơi cư trú, bất kì một sinh vật sống nào cũng cần nơi cư trú của mình. Thuật ngữ sinh thái học (ecology) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, bao gồm oikos (chỉ nơi sinh sống) và logos (học thuyết, khoa học).

Thuật ngữ “sinh thái học” chỉ thật sự ra đời vào năm 1869 do nhà sinh vật học người Đức Ernst Haecker đưa ra. Ông là người đầu tiên đặt nền móng cho môn khoa học sinh thái về mối tương quan giữa động vật với các thành phần môi trường vô sinh. Trải qua hàng trăm năm phát triển, sinh thái học đã có rất nhiều định nghĩa nhưng chung nhất vẫn là học thuyết nghiên cứu về nơi sinh sống của sinh vật, mối tương tác giữa cơ thể sinh vật sống và môi trường xung quanh. Ngày nay, sinh thái học không chỉ tồn tại trong sinh học mà nó còn là khoa học của nhiều ngành khác, trong đó có khoa học xã hội và nhân văn. Nếu như ở Anh người ta thường sử dụng thuật ngữ “phê bình xanh” (green criticism) thì ở Mỹ lại thích sử dụng thuật ngữ “phê bình sinh thái” (ecocritism). Nhiều thuật ngữ khác cũng thường được sử dụng như “thi pháp sinh thái” (ecopoetics), “phê bình văn học môi trường” (environmental literary criticism), “nghiên cứu xanh” (green study) hay “nghiên cứu (văn hóa) xanh” (green (cultural) studies), sáng tác tự nhiên (nature writing), sinh thái học lãng mạn (Romantic Ecology)…

Với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa và văn học, phê bình sinh thái được hình thành ở Mĩ vào giữa những năm 90 của thế kỉ XX, đã hấp thu tư tưởng cơ bản của sinh thái học vào nghiên cứu văn học “dẫn nhập quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn học”. Trong các định nghĩa về phê bình sinh thái, định nghĩa của Cheryll Glotfelty được xem là ngắn gọn và dễ hiểu hơn cả:

Nói đơn giản, phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên. Cũng giống như phê bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ góc độ giới tính, phê bình Marxist mang lại ý thức của phương thức sản xuất và thành phần kinh tế để đọc văn bản, phê bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earth-centered approach) để nghiên cứu văn học [4, 89].

Để hiểu rõ hơn định nghĩa này, chúng ta cần hiểu quan niệm của phê bình sinh thái về con người/ tự nhiên, tự nhiên/ văn hóa, những vấn đề làm nên tư tưởng đặc thù của phê bình sinh thái. Về mặt từ nguyên, tự nhiên (nature) mà gốc Latin của nó là “natura”, nghĩa là “đặc điểm thuộc về tự nhiên, vũ trụ” hay “nat” (sự sinh ra, được sinh ra)… để phân biệt với thế giới được chế tạo, như các đồ vật được làm bởi con người. Dẫu vậy, “tự nhiên” đã trở thành một diễn ngôn mơ hồ, luôn biến đổi, tồn tại mặc nhiên từ buổi hoang sơ, nhưng cũng là cái đã bị con người sở hữu và chiếm hữu theo nhiều cách. “Tự nhiên” do đó đã không còn là nó một cách nguyên thủy, mà các yếu tố cấu thành nó ít nhiều đều bị quy định bởi con người. Theo sự biến thiên này, cặp từ tự nhiên (nature)/ văn hóa (culture) không còn là sự đối lập đơn giản mà có sự xuyên thấm lẫn nhau. Thật khó có một thứ gì đó có thể phân loại rành mạch rõ ràng, nhất là cặp đôi “phiền phức” văn hóa/ tự nhiên. Peter Barry đã chứng minh bằng cách lấy thí dụ, cái chúng ta gọi là ‘môi trường bên ngoài’ là một chuỗi các khu vực xâm nhập, sấn chéo lên nhau và dịch chuyển dần dần từ khu vực tự nhiên sang khu vực văn hóa, theo trật tự như sau: Khu vực một: cái hoang dã (the wilderness). Thí dụ sa mạc, đại dương, những lục địa không có người sinh sống. Khu vực hai: Cảnh trí hiểm trở (the scenic sublime). Thí dụ rừng, hồ, núi, thác nước… Khu vực ba: vùng nông thôn (the countryside). Thí dụ đồi, cánh đồng, rừng cây… Khu vực bốn: cảnh trí nhân tạo quanh nhà (the domestic picturesque). Thí dụ công viên, vườn, đường… Khi chúng ta di chuyển (trong suy nghĩ) giữa các khu vực này, rõ ràng chúng ta đã di chuyển từ khu vực thứ nhất - “thuần túy” tự nhiên sang khu vực thứ tư - phần lớn là “văn hóa”. Dĩ nhiên, cái hoang dã bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng nhà kính - vốn là do văn hóa tạo ra, và các khu vườn thì tồn tại phụ thuộc vào ánh nắng - vốn thuộc lực lượng tự nhiên [1, 252]. Do vậy, các nhà phê bình sinh thái sử dụng thuật ngữ human/nonhuman khi chỉ mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên. Karen Thornber giải thích “sử dụng thuật ngữ “nonhuman” (thế giới phi nhân loại) để chỉ sinh học (nghĩa là, các sinh vật không phải con người) và vô sinh (có nghĩa là để nói, yếu tố vật chất không sống như không khí, nước và đất). Tôi sử dụng thuật ngữ “human” (nhân loại) để chỉ con người và công trình xây dựng của con người cả về vật chất và trí tuệ, bao gồm cả công nghệ” [10]. Phê bình sinh thái khẳng định tầm quan trọng của việc nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa nhân loại (human) và phinhân-loại (nonhuman) trong các diễn ngôn văn hóa. Phê bình sinh thái trở thành một giải pháp khôi phục ý nghĩa và tầm quan trọng của tự nhiên với con người cũng như khẳng định vai trò của ngôn ngữ trong việc định hình và thay đổi các quan niệm về tự nhiên như lời khẳng định của Glotfelty:

Toàn bộ phê bình sinh thái chia sẻ những giả thuyết cơ bản mà văn hóa con người kết nối với tự nhiên, ảnh hưởng tới nó và chịu ảnh hưởng của nó. Phê bình sinh thái đặt vấn đề quan hệ nối kết giữa tự nhiên và văn hóa, đặc biệt là sự tạo tác văn hóa của ngôn ngữ và văn học. Như một quan điểm phê bình, phê bình sinh thái đặt một chân ở văn học và chân kia trên mặt đất, như là một diễn ngôn lí thuyết, phê bình sinh thái dàn xếp giữa con người (human) và (thế giới) phi nhân loại (nonhuman) [5, 89].

Manh nha từ những năm bảy mươi của thế kỉ XX nhưng đến những năm 1990, phê bình sinh thái mới thực sự phát triển. Các hội nghị khoa học về vấn đề môi trường và văn học được tổ chức hằng năm. Năm 1992 ASLE (the Association for the Study of Literature and Environment) - Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường được sáng lập. Hiệp hội này trở thành tổ chức có hàng nghìn thành viên ở Mỹ, sau đó các chi nhánh mới thành lập ở Anh và tiếp theo là nhiều nước châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, Ấn Độ, Đông Nam Á… Năm 1993, Patrick Murphy đã xuất bản tạp chí mới, là ISLE: Interdisciplinary Studies in Literature and Environment (Nghiên cứu Liên ngành Văn học và Môi trường) để cung cấp một diễn đàn nghiên cứu phê bình văn học quan tâm tới lí do môi trường. Đồng thời phong trào này cũng lan ra các trường đại học, một vài trường đã đưa vào trong các khóa văn học chương trình giảng dạy về nghiên cứu môi trường; một số học viện về tự nhiên và văn hóa được thành lập; một số khoa tiếng Anh yêu cầu những chương trình nhỏ về văn học môi trường. Nhờ đó, phê bình sinh thái đã chính thức trở thành một phong trào nghiên cứu hàn lâm. Hiện tại phê bình sinh thái đang là một trào lưu phê bình năng động trên thế giới, thu hút sự quan tâm ngày càng nhiều hơn các nước ngoài phương Tây.

2. “Phê bình sinh thái đảo lộn truyền thống phê bình”

Đây là nhận định của Peter Barry, trong tuyển tập giới thiệu những lí thuyết văn học Beginning Theory: An Introduction to Literary and Cultural Theory, phần đánh giá của ông về phê bình sinh thái [1]. Ông cho rằng phê bình văn học trước đây quá chú tâm vào con người - khai thác tính cách, tâm lí, tình cảm, hành động, nội tâm… Quả thật, nghiên cứu văn học sau khi “trở về chính mình” với những lí thuyết như chủ nghĩa hình thức, phê bình mới, chủ nghĩa cấu trúc… chủ yếu quan tâm đến những phương diện nội tại của tác phẩm, dường như nhiều khi trở nên tự thu hẹp, khó tiếp cận với những vấn đề đương đại rộng lớn. Mặt khác, các trường phái nghiên cứu văn học hiện nay với những mối bận tâm về con người: phê bình phân tâm học, phê bình Marxist, lí thuyết tiếp nhận… trên thực tế đã đạt được nhiều thành tựu nhưng có lẽ “đang trong giai đoạn thác ghềnh và thỉnh thoảng mất phương hướng” [4, 92]. Hiện nay, bên cạnh những hướng nghiên cứu văn học trước đó vẫn đang có những tìm tòi mới mẻ và đạt được nhiều thành tựu, thì cũng xuất hiện sự chuyển hướng văn hóa trong nghiên cứu văn học, xuyên qua văn học để quan sát sự đổi thay văn hóa, nghiên cứu ý thức văn hóa, xã hội được thể hiện như thế nào trong văn học, là một hướng đi mới, giúp văn học nhập cuộc với những vấn đề đang xảy ra trong đời sống đương đại, trong đó có vấn đề môi trường.

Phê bình sinh thái truy tìm căn nguyên của khủng hoảng môi trường hiện tại, phê phán thuyết con người là trung tâm (anthropocentrism). Quan điểm này vấp phải một rào cản đã tồn tại một cách thâm căn cố đế trong tư tưởng truyền thống coi con người là tinh hoa “Con người là kiểu mẫu của muôn loài”. Văn học từ xưa đến nay ngợi ca bao nhân vật mang vị thế chúa tể muôn loài bằng khát vọng chinh phục tự nhiên: từ Prômêtê, Hecquyn, Uylitxơ đến Hậu Nghệ, Nữ Oa, Ngu công, Sơn Tinh… Vậy nên văn học cũng có lỗi trong việc khiến cho trái đất đang ngày một kiệt quệ. Bởi vậy, sự thay đổi trong suy nghĩ liên quan đến con người với môi trường cần được đổi thay từ chính văn học, nơi thích hợp để phản biện lại những thói quen của tư duy. Phê bình sinh thái đã thay đổi một cách cơ bản cách nhìn nhận, tiếp cận đối tượng. Các phong trào nghiên cứu văn học từ trước đến nay đều lấy “con người làm trung tâm” (humancentred), còn phê bình sinh thái quan niệm đặt trái đất lên trước hết (Putting the Earth first). Bởi vậy, phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earth-centered approach) để nghiên cứu văn học của phê bình sinh thái đã chỉ trích lí tưởng đề cao cá nhân, từ đó tạo ra một phản đề đối với tư tưởng đã ăn sâu cắm rễ vào tư duy nhân loại, để đề xuất quan niệm đề cao tính tương quan giữa cá nhân và môi trường. Và như vậy phê bình sinh thái cũng mong muốn chấm dứt tình trạng li khai hàng nghìn năm nay giữa văn hóa và tự nhiên. Chủ nghĩa nhân văn sinh thái do phê bình sinh thái đề xuất không tách rời thiên nhiên và văn hóa mà nối lại mạch sống ngàn đời của con người với tự nhiên, coi con người là một phần cộng sinh của tạo hóa.

Cân bằng tự nhiên cũng đảm bảo cho cân bằng xã hội. Đó là lí do vì sao phê bình sinh thái tích hợp với các vấn đề xã hội: giới tính (sinh thái nữ quyền (ecofeminism), chủng tộc, giai cấp, xã hội (sinh thái hậu thực dân, sinh thái xã hội (social ecology), sinh thái chủ nghĩa Mác (eco-Marxism)...). Các học giả sinh thái thế giới rất lưu tâm tìm về với văn học lãng mạn (sinh thái học lãng mạn) vì văn học lãng mạn gắn liền với quá trình đô thị, khi văn minh xâm lấn, nhiều tác giả đã quay lưng bằng cách trốn vào thiên nhiên. Nhưng về sau, các tác phẩm quan tâm hơn đến các vấn đề xã hội, hướng về đô thị, những vấn đề nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa…

Như vậy, phê bình sinh thái làm đảo lộn truyền thống phê bình ở nhiều khía cạnh. Điểm thứ nhất, chuyển hướng trung tâm từ con người ra nghiên cứu bối cảnh xung quanh con người, cái nền tảng làm nên chân dung của nhân vật. Điểm thứ hai, là từ cái nhìn “sinh thái trung tâm”, phạm vi thế giới sẽ được mở rộng, không phải chỉ là phạm vi xã hội mà toàn bộ sinh quyển “Lí thuyết văn học, nhìn chung, nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà văn, văn bản và thế giới. Trong hầu hết các lí thuyết văn học, “thế giới” đồng nghĩa với xã hội - phạm vi xã hội. Phê bình sinh thái mở rộng khái niệm “thế giới” bao gồm toàn bộ sinh quyển” [4, 90]. Thứ ba, “Tái kết nối tính xã hội và tính sinh thái” phê bình sinh thái giao cắt với chính trị, do vậy nó không hề “trong trẻo” mà kì thực rất nhạy cảm. Cũng nhờ vậy mà nó tiếp cận được với nhiều vấn đề đương đại rộng lớn.

Tính liên ngành cần được nhấn mạnh, ngoài các văn bản hư cấu, cần tìm hiểu các văn bản phi hư cấu, các loại hình nghệ thuật khác khá năng động như âm nhạc, điện ảnh, kiến trúc… trong việc phản ứng với trào lưu sinh thái. Văn học cũng như điện ảnh, âm nhạc, kiến trúc, hội họa… là những loại hình nghệ thuật để đưa ra thông điệp của sự phản tỉnh. Vậy các loại hình nghệ thuật khác khá năng động phản ứng với các trào lưu sinh thái ra sao? Việc sử dụng phương pháp liên ngành, kết hợp văn học với khoa học, phân tích tác phẩm văn chương để rút ra những cảnh báo môi trường. Vận dụng những kiến thức của các ngành khoa học (sinh thái học, dân tộc học, sử học, triết học, chính trị học, đạo đức học, tôn giáo học, tâm lí học...) để hiểu và lý giải các tác phẩm, thì việc tìm hiểu các ngành khác cũng giúp nhìn ra nhiều vấn đề, nhiều phương thức giải quyết cho vấn đề sinh thái hiện nay. Do vậy, phê bình sinh thái đề xuất những khái niệm mà thông qua đó nhìn nhận thấy sinh thái có một mối liên hệ liên ngành, liên loài, xuyên hành tinh… trong việc nghiên cứu các vấn đề sinh thái toàn cầu như Cheryll Glotfelty mong đợi “Trong tương lai, chúng ta có thể mong rằng phê bình sinh thái trở thành liên ngành, đa văn hóa và mang tính quốc tế chưa từng thấy từ trước tới nay. Công tác liên ngành cũng được tiến hành và có thể được tạo điều kiện hơn nữa bằng cách mời các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực để làm diễn giả tại các hội nghị văn học và bằng việc đăng cai nhiều hơn những hội thảo liên ngành về các vấn đề môi trường” [4, 92].

3. Phê bình sinh thái - những khởi đầu mới mẻ ở Việt Nam

Cần có sự phân biệt giữa văn học sinh thái và phê bình sinh thái. Phê bình sinh thái là một khuynh hướng nghiên cứu mà dựa vào đó, nhà nghiên cứu có thể nghiên cứu văn học từ cổ đại đến nay, thông qua các tư tưởng truyền thống có thể rút ra các yếu tố sinh thái, ý tưởng sinh thái... còn văn học sinh thái xuất hiện cùng với những cảnh báo môi trường trong thời đại mà khủng hoảng sinh thái trở thành một vấn đề nghiêm trọng, do vậy, văn học sinh thái xuất hiện tương đối muộn. Theo Lawrence Buell, một tác phẩm được cho là viết theo định hướng môi trường sẽ mang những nội dung chính như sau:

1. Môi trường phi nhân không còn chỉ được nhìn đơn thuần như là một thứ công cụ làm khung nền cho sự xuất hiện của con người, ngược lại, sự hiện diện của nó cho thấy lịch sử nhân loại bao giờ cũng có mối liên hệ chặt chẽ với lịch sử tự nhiên. (…)

2. Quyền lợi của loài người không phải là quyền lợi chính đáng duy nhất.

3. Mức độ quan tâm của con người đối với môi trường là một phần thuộc giá trị đạo đức của mỗi văn bản. (…)

4. Theo một nghĩa nào đó, môi trường được nhìn như một quá trình, chứ không phải là một hằng số bất biến hay ít nhất, được cho là một thông điệp ẩn giấu đằng sau tác phẩm (...) [2, p 7-8].

Tác phẩm sinh thái được nhận diện ở dấu hiệu: khi tác phẩm từ bỏ cái nhìn mang tính ẩn dụ về tự nhiên để viết với ý thức sinh thái. Văn học sinh thái chống lại sự nhân hóa tự nhiên. Khác với các truyện truyền thống về thế giới tự nhiên, chỉ có một nhân vật xuyên suốt câu chuyện, chỉ có một tiếng nói cất lên sau hình tượng đó, tiếng nói mà con người phú cho. Ngược lại, trong các truyện sinh thái, bên cạnh thế giới con người là thế giới muông thú với những tình cảm, tính cách, cá tính… rất riêng. Tự nhiên có sinh mệnh độc lập, có địa vị bên ngoài mọi quan niệm của con người. Mặt khác, “Văn học sinh thái lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm cơ sở tư tưởng, lấy lợi ích chỉnh thể của hệ thống sinh thái làm giá trị cao nhất để khảo sát và biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và truy tìm nguồn gốc xã hội của nguy cơ sinh thái” [8]. Thực chất, mối quan hệ giữa con người và sinh thái là mối quan hệ cộng sinh, do vậy tác phẩm viết về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên phải có quan điểm sinh thái. Lấy tư tưởng “sinh thái là trung tâm” không phải là tư tưởng hạ thấp con người mà thực ra lợi ích của sinh thái suy cho cùng chính là lợi ích bền vững của nhân loại. Vấn đề biến đổi khí hậu, nguy cơ sinh thái là vấn đề của toàn cầu chứ không phải là vấn đề riêng lẻ của mỗi quốc gia dân tộc. Văn học sinh thái chú trọng đến trách nhiệm của con người đối với tự nhiên, khẩn thiết kêu gọi bảo vệ vạn vật trong tự nhiên và duy trì cân bằng sinh thái.

Như vậy, mặc dù trước khi xuất hiện phê bình sinh thái, vấn đề con người trong mối quan hệ với tự nhiên đã được nghiên cứu. Trong lịch sử, con người đã trải qua nhiều cảm thức trong mối quan hệ với tự nhiên. Cảm thức kính sợ tôn sùng tự nhiên trong văn học cổ đại (thần thoại, sử thi). Trong văn học dân gian, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên biểu hiện ở những công trình nghiên cứu về các loài vật, cây cỏ… Trong văn học trung đại, đó là cảm thức hòa điệu: sự ca tụng thiên nhiên, xem thiên nhiên là nơi lánh trú của tâm hồn, lí tưởng hóa sự tương tác giữa con người và môi trường (thơ sơn thủy, điền viên, thơ haiku, thể loại mục ca…). Văn học lãng mạn cũng đã có những quan tâm đến mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, đặc biệt đã có những nghiên cứu thể hiện sự mất dần những giá trị cổ truyền tốt đẹp vì sự xâm lấn của đô thị như trong các nghiên cứu về thơ Nguyễn Bính, thơ Bàng Bá Lân, thơ Anh Thơ… Tuy nhiên, những vấn đề mà các nghiên cứu đưa ra chưa thực sự là vấn đề của sinh thái hiện đại.

Từ năm 2011 đến nay, phê bình sinh thái bắt đầu được chuyển dịch, giới thiệu và thực hành nghiên cứu ngày một nhiều hơn ở Việt Nam. Điều đó, xuất phát từ nhu cầu bức thiết của dân tộc, nó cũng chứng tỏ sự hòa chung vào xu hướng toàn cầu hóa trong nghiên cứu văn học Việt Nam.

Năm 2011, Viện Văn học tổ chức buổi thuyết trình về vấn đề phê bình sinh thái. Karen Thronber sang Việt Nam trong khuôn khổ Hội thảo quốc tế 2011 “Tiếp cận văn học châu Á từ lý thuyết phương Tây hiện đại: vận dụng, tương thích, thách thức và cơ hội”. Tại Viện Văn học, bà cũng đã có buổi giảng về Ecocriticism giới thiệu một cách tổng quan về bản chất, ý nghĩa và tiến trình của nghiên cứu văn chương môi trường và sau đó phân tích 6 điểm cơ bản mà phê bình sinh thái quan tâm. Từ đó, phê bình sinh thái đã được giới thiệu, ứng dụng nghiên cứu tại Việt Nam với các tác giả như Đỗ Văn Hiểu, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Trần Thị Ánh Nguyệt, Đặng Thị Thái Hà… Hiện tại, có hai cuốn sách về phê bình sinh thái đã được xuất bản: Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái (Trần Ánh Nguyệt và Lê Lưu Oanh, 2016), Rừng khô suối cạn, biển độc... và văn chương (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017). Các trường đại học, các Viện nghiên cứu cũng đã quan tâm đến phê bình sinh thái nhiều hơn, bằng chứng là tại các hội thảo khoa học trong nước và quốc tế, phê bình sinh thái đã xuất hiện trên diễn đàn trao đổi, đó cũng là khuynh hướng mà nhiều học viên cao học, nghiên cứu sinh lựa chọn.

Thành tựu về dịch thuật phê bình sinh thái còn khá khiêm tốn. Bài Phê bình sinh thái - cội nguồn và sự phát triển (2012) của Đỗ Văn Hiểu đã tổng hợp, giới thiệu phong trào phê bình sinh thái trên thế giới, đồng thời chỉ ra cội nguồn tư tưởng của các nhà triết học phương Tây làm tiền đề xuất hiện phê bình sinh thái. Trần Ngọc Hiếu với bản dịch Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học (Karen Thornber, 2013) đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn nhiều gợi ý về triển vọng của phong trào. Các bản dịch của Đặng Thị Thái Hà (Phê bình sinh thái, Kate Rigby, 2014), Trần Thị Ánh Nguyệt (Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường, Cheryll Glotfelty, 2014) từ những văn bản khá quan trọng của phê bình sinh thái thể hiện sự nỗ lực giới thiệu phê bình sinh thái ở Việt Nam. Gần đây là cuốn Phê bình sinh thái là gì? Viện Văn học chủ trì dịch, Hoàng Tố Mai chủ biên. Tuy nhiên, thành tựu dịch thuật mới chỉ dừng lại ở những bài viết, bài tổng thuật, cần có những công trình dịch dài hơi hơn về phê bình sinh thái.

Cuối năm 2017, đầu 2018 có 3 hội thảo về phê bình sinh thái: Hội thảo khoa học quốc tế “Phê bình sinh thái: tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu” của Viện Văn học tổ chức (12/2017); Hội thảo khoa học quốc tế lần thứ 2 “Sinh thái học trong văn học Đông Nam Á: Lịch sử, Huyền thoại và Xã hội” của Hiệp hội nghiên cứu liên ngành Văn học và Môi trường Đông Nam Á (ASLE ASEAN) diễn ra tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội (01/ 2018); Hội thảo khoa học “Phê bình sinh thái: Lí thuyết và ứng dụng” của Khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (01/2018) chứng tỏ sự quan tâm ngày càng nhiều hơn với phê bình sinh thái của giới nghiên cứu. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng phê bình sinh thái cần được dịch thuật, giới thiệu và nghiên cứu một cách nghiêm túc, bài bản và toàn diện hơn nữa; các nhà văn cần có nhiều tác phẩm viết về đề tài này để thúc đẩy tương lai sinh thái trong văn học. Văn học quan tâm đến sự sống, sự khủng hoảng sinh thái ngày càng ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, vậy nên văn học cần có những tiếng nói mạnh mẽ hơn để bảo vệ sự sống trên Trái đất.

TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT
Nguồn: SÔNG HƯƠNG 04-2018

Tài liệu tham khảo:

1. Peter Barry (2002). “Ecocriticism”, Beginning Theory: An Introduction to Literary and Cultural Theory, London, Manchester University.
2. Lawrence Buell (1995), The Environmental Imagination: Thoreau, Nature Writing, and the Formation of American Culture, Harvard University Press, p 7-8.
3. Nguyễn Đăng Điệp (2014), “Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa”, Thơ Việt Nam hiện đại tiến trình và hiện tượng, Nxb. Văn học, Hà Nội.
4. Cheryll Glotfelty (1996), “Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường”, Trần Thị Ánh Nguyệt dịch, Tạp chí Sông Hương, số 305 tháng 7.
5. Đặng Thị Thái Hà (2014), Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
6. Đỗ Văn Hiểu (2012), “Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân”, Tạp chí Phát triển Nghiên cứu và khoa học. Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, số15 (X2).
7. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2013), “Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc”, Văn học hậu hiện đại - lí thuyết và thực tiễn, Lê Huy Bắc chủ biên, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2014), “Sáng tác và phê bình sinh thái - tiềm năng cần khai thác của văn học Việt Nam”, Hội thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.
9. Thornber K. (2014), Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học (Hải Ngọc dịch). http:// hieutn1979.wordpress.com
10. Thornber K., (2011). Ecocriticism and Japanese Literature of the Avant-Garde. http://interlitq. org/issue8/karen_thornber/job.php




NHÀ VĂN THÙY DƯƠNG: TRĂN TRỞ VỚI MỖI THÂN PHẬN NGƯỜI

Nếu không biết Thùy Dương sinh ra và lớn lên ở Hải Dương, sẽ đoán   chắc nàng là người Hà Nội gốc. Gọi là nàng v ì nàng không chỉ xinh đẹp, ...

BÀI ĐỌC NHIỀU