Nhà thơ Tế Hanh và bút tích của ông
Quan lộ của ông hanh thông. Những việc, những địa vị nhiều
người thèm muốn, cạy cục chạy vạy lại đến với ông hoàn toàn tự nhiên.
Có lẽ, một phần do uy tín văn chương của ông, đức độ của
ông, phần khác, do ông không âm mưu, không phe phái, không khiến bất cứ ai phải
dè chừng. Ông là một trong những ủy viên Ban chấp hành “chuyên nghiệp”, có lúc
là Ủy viên thường vụ, có lúc là Trưởng ban Đối ngoại, có lúc tham gia lãnh đạo
báo Văn nghệ, Nhà xuất bản Văn học… Tôi không biết, không hình dung được, con
người “dư một ít lời thơ”, “dư thương sớm, sẵn ngơ ngẩn chiều”, con người
“Gặp em câu cuối cùng chưa nói/ buổi sớm qua rồi, sắp hết trưa” ấy đã
hoàn tất những công việc quan trọng đó như thế nào. Có lẽ, một cách cũng …: “Vừa
thực lại vừa mộng/Vừa gần lại vừa xa” mà thôi. (Mùa thu Yanta).
Tế Hanh rất hiền. Rất thật thà. Rất giàu yêu thương. Nhiều
bạn văn chương như Quách Tạo, Chế Lan Viên, Khương Hữu Dụng, Tô Hoài, Nguyễn
Xuân Sanh, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Viết Lãm, Nguyễn Đình, Tịnh Hà, Hà Minh Đức,
Phạm Hổ, Nguyễn Đình Thi, Võ Văn Trực, Mã Giang Lân, Vũ Quần Phương… nhận được
lời đề tặng trước các bài thơ của ông. Trong số bạn văn nghệ, hình như ông gần
gũi, thân thiết hơn với Huy Cận, Xuân Diệu, Hoàng Trung Thông, Chế Lan Viên. Giữa
họ có sự khăng khít của mối tình bè bạn từ nhiều năm tháng của cuộc đời. Bài
thơ ông viết sau khi Xuân Diệu mất thấm thía chân tình:
Mọi khi đến nhà anh/ Tôi gọi to: Diệu ơi/ Nghe anh trả
lời:/ Hanh đó hả// Hôm nay đến nhà anh/ Tôi gọi thầm: Diệu ơi/ Và chỉ nghe tiếng
tôi: Diệu ơi. Cái tiếng vọng thiệt thà, âm thầm mà da diết này chính
là Tế Hanh, là thơ Tế Hanh. Nhưng ông thân với Chế Lan Viên hơn cả. Chế Lan
Viên là nhà thơ sắc sảo nhất của làng thơ Việt. Tôi có cảm giác Chế Lan Viên cần
sự hồn hậu ở bạn và Tế Hanh thì “nương tựa” vào sự mạnh mẽ, quyết đoán của Chế
Lan Viên. Tôi được một chị bạn làm việc tại văn phòng Hội Nhà văn kể lại câu
chuyện sau: Một hôm, có cuộc họp gay cấn về một vấn đề nào đó của Đảng đoàn Hội.
Giữa chừng, Chế Lan Viên có điện thoại, ông phải xuống văn phòng để nghe (hồi
đó chưa có di động mà máy cố định cũng rất ít). Chế Lan Viên đang nói chuyện
thì thấy Tế Hanh chạy từ tầng trên xuống, giọng lo lắng: Hoan ơi, nhanh lên, họ
phản công rồi. Chế Lan Viên vội vã theo chân bạn trở lại cuộc họp.
Có vẻ như những cuộc họp kiểu đó, những gay gắt, những đối
đầu đều không chút thích hợp với Tế Hanh. Ông không muốn tham dự nhưng lại
không thể né tránh. Những khi nghe ông thầm thì các câu chuyện tưởng là thâm
cung bí sử của giới lãnh đạo nhà nước, giới lãnh đạo văn nghệ mà hầu như ai ai
cũng đã biết, mới thấy hết sự mơ màng thi sĩ của ông. Những lúc như vậy, tôi có
cảm giác ông đang bước lạc vào một thế giới xa lạ và lại nhớ tới nhận xét “người
rụt rè, ngượng nghịu như một chàng rể mới” của Hoài Thanh.
***
Nhưng Hoài Thanh cũng từng viết về con người rụt rè, ngượng
nghịu ấy: “Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh lắm”. Vâng, Tế
Hanh là một người tinh lắm trong cõi Thơ của mình. Hoài Thanh cũng viết: “Tế
Hanh sở dĩ nhìn đời một cách sâu sắc như thế là vì người có sẵn một tâm hồn tha
thiết.” Vâng, Tế Hanh có một tâm hồn tha thiết với những nơi chốn, những
tình cảnh, những con người ông yêu mến, xót thương. Chế Lan Viên đã viết rất
hay, rất chính xác về cái tạng của Tế Hanh, về bầu khí nuôi dưỡng thơ Tế Hanh: “Dù
anh viết khá hay vể biển, biển trong bão dữ, nghĩ đến anh, tôi vẫn nghĩ đến cái
êm đềm của những dòng sông. Chim anh viết hay, không phải hải âu mà là chim én.
Anh có thể tả mùa hè rực rỡ nhưng hình như anh xúc động nhất mùa thu... Nếu vào
trong khu vườn, Xuân Diệu sẽ ngoạm vào các trái hồng lẫn trái xanh, Huy Cận lắng
nghe chất nhựa trên cành, người nào đó sẽ hì hục tìm thơ trong bộ rễ âm thầm,
còn với Hanh thì màu xanh của lá cũng đủ cho anh hạnh phúc”(Tế Hanh hay Thơ
và Cách mạng - Tuyển tập Tế Hanh, NXB Văn học, 1987). Nhưng dường như chưa thỏa,
vài lần khác trong bài viết, Chế Lan Viên nhấn lại ý trên: “Và giữa bao
nhiêu cái rộn ràng ấy, thì cái lõi, cái thực chất Tế Hanh, người tình
nhân (Tôi nhấn mạnh), vẫn còn lại đó” (s đ d). Sở dĩ tôi trích
Chế Lan Viên nhiều như vậy, một phần bởi ông là người bạn tri âm tri kỷ của Tế
Hanh, ông là người yêu và hiểu Tế Hanh, yêu và hiểu thơ Tế Hanh hơn bất cứ ai.
Phần khác, tôi có cùng cảm nhận như ông khi đọc Tế Hanh, khi gặp Tế Hanh, ngoại
trừ việc ông cho rằng, nếu cách mạng không đến, có khi Tế Hanh: “thành
nhà thơ trừu tượng cũng nên” (s đ d). Chính Tế Hanh đã chẳng từng khẳng
định: Tôi muốn viết những dòng thơ dễ hiểu/ Như những lời mộc mạc trong
ca dao” đó thôi. Có thể, những lời đó được viết trong một cảnh ngộ cụ
thể nào đó, một trạng thái tình cảm nào đó nhưng từ trong bản chất, thơ Tế Hanh
thuộc dòng thơ tình cảm, hơn thế, trực cảm. Những câu thơ hay của Tế Hanh như món
quà bất ngờ trời đất ban tặng, như một bông hoa quý hiếm chợt hiện ra trên đường,
ngay trước mắt và trong tầm tay.
Trong bài thơ Viết sinh nhật 60, Tế Hanh
đã rất thành thật khi nói rằng: Khi tôi hai mươi tuổi người ta đọc thơ tôi/ Khi
tôi ba mươi tuổi, người ta quên thơ tôi/Khi tôi bốn mươi tuổi, người ta lại đọc
thơ tôi/ Khi tôi năm mươi tuổi, người ta còn đọc thơ tôi.
Thực ra thì khó có một thời điểm dứt khoát, rạch ròi đến
vậy. Ta chỉ có thể nói đến một khoảng thời gian nào đó mà thôi. Khi Tế Hanh ở độ
tuổi đôi mươi, ông có Quê hương, Lời con đường quê, Những ngày nghỉ học,
Phơi phới, Dễ thương, Vườn cũ, Hoàng hôn… những bài thơ sau hơn 70 năm
vẫn còn in dấu trong tâm tưởng người đọc. Những câu thơ như Tôi, con đường
nhỏ chạy lang thang/ Kéo nỗi buồn không chạy khắp làng” (Lời con đường quê);
“Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt/Lòng buồn đau xót nỗi chia xa/ Tôi thấy tôi
thương những chiếc tàu/ Ngàn đời không đủ sức đi mau/Có chi vương vấn trong hơi
máy/ Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau… Lẽo đẽo tôi về theo bước họ/ Tâm hồn ngơ
ngẩn nhớ muôn phương (Những ngày nghỉ học); Cảm giác êm êm khẽ động vừa/ Lan từ
bóng lá ủ ê đưa/ Âm thầm cửa hé trông xa vắng/ Như lúc đầu thu những buổi trưa
(Dễ thương);Nhà người yêu mến ngang qua đấy/ Vắng mặt nên lòng thấy biệt ly” (Có
những con đường); Nắng nhớ rưng rưng chớp lệ mờ/ Mây buồn đôi mảnh vẩn lơ thơ/
Cỏ cây im lặng như từ thưở/ Đôi lứa xa nhau vẫn đợi chờ (Vườn cũ); Lẻ loi cho đến
cả bên chân/ Cái bóng trung trinh cũng chẳng quầng (Hoàng hôn)… đã lặm
vào, đã ẩn sâu trong tâm hồn nhiều thế hệ yêu văn chương Việt Nam.
Khi Tế Hanh ở độ tuổi 40- 50 người đọc thường nhắc đến Nhớ
con sông quê hương, Chiêm bao, Liễu, Bài thơ tình ở Hàng Châu, Bão, Vườn xưa,
Cha ngồi ở giữa, Mặt quê hương, Mặt mùa xuân, Gặp xuân ở ngoại thành, Chăn con,
Tiếng sóng, Gửi miền Bắc, Rét nàng Bân, Điệu quê hương, Mùa thu Yanta, Phạm
Thái, Tình yêu của sách, Cái nhìn, Kinh nghiệm làm thơ, Tặng, Sóng, Hà Nội vắng
em… của ông. Đây là khoảng thời gian hồi sinh của Tế Hanh, sau thời
gian “người ta quên thơ tôi” (trong thực tế, thời gian ở độ tuổi 30, Tế Hanh viết
rất ít hay có thể nói, ông gần như không viết được. Và không chỉ riêng Tế Hanh.
Nhiều nhà thơ của phong trào Thơ Mới như Huy Cận, Xuân diệu, Chế Lan Viên đều
hăng hái tham gia cách mạng tháng 8 và kháng chiến giải phóng dân tộc nhưng
cũng viết ít và không để lại dấu ấn. Và, không chỉ các nhà thơ. Tìm hiểu nguyên
nhân của hiện tượng này là một công việc đòi hỏi nhiều công phu và xin bàn vào
dịp khác).
Bài thơ tình ở Hàng Châu được viết trong một
chuyến thăm Trung Quốc, vào những ngày hòa bình đầu tiên sau cuộc kháng chiến 9
năm. Cảnh trí thanh bình, “bốn bề êm ái”, trăng “vời vợi thâu đêm” và
Mùa thu đã đi qua còn gửi lại/ một ít vàng trong nắng trong cây/ Một ít buồn
trong gió trong mây/ Một ít vui trên môi người thiếu nữ… chính là bầu
khí, là đất sống của thơ Tế Hanh. Một ít buồn, một ít nhớ nhung, một ít xót xa,
thương cảm, một ít day dứt: Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa/ Hoa cúc
vàng như nỗi nhớ dây dưa và Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui/ Những ngày
vui sao lại thấy bùi ngùi… là Tế Hanh, nhà thơ tình cảm, nhà thơ của mùa
thu, của ánh trăng, của dòng sông êm, của cánh lá xanh, của ánh vàng sót lại
sau thu, của “hoa bắt đầu thưa thớt cuối đường xuân” của “sợi gió đến
se cùng sợi liễu”… Cố nhiên, Tế Hanh lúc này không còn là cậu học trò
trốn học “tâm hồn ngơ ngẩn nhớ muôn phương” nữa. Nỗi nhớ của
ông đã có địa chỉ: nhớ mẹ, nhớ Vườn xưa, Nhớ miền Bắc, ông đã lắng nghe “Điệu
quê hương”, lắng nghe “Tiếng sóng”, cái tiếng sóng “đã bao lần vang động
giữa thơ tôi”, ông đã nhìn thấy một dòng Hiền Lương: “Nước chảy
xuôi dòng bỗng chảy ngang” bởi nỗi đau chia cắt đôi bờ… Và, ông đã
yêu:
“Ta đã yêu em/ Như yêu sự sống/ Ngày hiện trong đêm/
Thực hòa với mộng”, ông nhìn thấy quê hương thương yêu, trìu mến qua khuôn
mặt người con gái: “mặt em như tấm gương/ Anh nhìn thấy quê hương… Ơi
miền Nam yêu dấu/ Trên mặt em yêu dấu/ Ơi tháng năm nhớ thương/ Mặt em là quê
hương”. Ông hân hoan cùng cảnh trí: “Tôi từ nội thành ra ngoại thành/
Vừa gặp mùa xuân đi ngược lại”… Và, trong tâm hồn hiền hậu của Tế Hanh đã có một
cơn bão: Cơn bão nghiêng đêm/ Cây gãy cành bay lá/ Ta nắm tay em/ Cùng
qua đường cho khỏi ngã// Cơn bão tạnh lâu rồi/ Hàng cây xanh thắm lại/ Nhưng em
đã xa xôi/ và cơn bão lòng ta thổi mãi”… Cơn bão, chính là một chỉ dấu
sự thay đổi của Tế Hanh trong giai đoạn này.
Trong vài ba mươi năm Tế Hanh đã xuất bản hàng chục tập
thơ: Gửi miền Bắc, Tiếng sóng, Hai nửa yêu thương, Khúc ca mới, Đi suốt
bài ca, Câu chuyện quê hương, Theo nhịp tháng ngày, Giữa những ngày xuân, Con
đường và Dòng sông. Đây là giai đoạn Tế Hanh viết nhiều và có nhiều
bài thơ hay. Tuy nhiên, như Tế Hanh từng viết, một cách khiêm tốn: “Đem
bày tỏ nỗi lòng/ Trong câu thơ cảm khái/ Có đôi khi thành công/Và nhiều khi thất
bại”, ông chỉ thực sự thành công ở những bài thơ tình cảm, hợp tạng của
mình.
Trong một bài viết về Tế Hanh, Thanh Thảo cho rằng: “Thơ
Tế Hanh có lẽ gần nhất với âm nhạc đồng quê, gần nhất với những khúc ca quê mà
người ở đầu sông hay cuối bãi vẫn thầm hát cho chính mình. Không hề cố gắng,
không tỉa tót hay triết luận, thơ Tế Hanh đến ngay người đọc theo con đường thẳng,
như cách của một người bạn thật thà, chân thành và đôn hậu, thuyết phục ta bằng
sự hồn nhiên bẩm sinh, bằng tiếng nói nguyên thủy của con người khi yêu thương,
bằng sự dễ dàng còn lại sau mọi phức tạp đã qua (Từ Hoa niên tới mãi
mãi -Tưởng nhớ nhà thơ Tế Hanh, NXB Hội Nhà văn, 2009). Thanh Thảo cũng cho rằng,
dù đọc rất nhiều thơ nước ngoài, am hiểu thơ hiện đại phương Tây, yêu thích
Aragon, Eluard, Rene Char, Saint-John-Perse…và dịch nhiều thơ, Tế Hanh “vẫn
rất mộc mạc, thật hồn nhiên và với ông, kỹ thuật thơ, dù là kỹ thuật tân kỳ, vẫn
không khiến ông quan tâm bằng chính cảm xúc và sự hồn nhiên, đôn hậu (s
đ d.). Nhận xét này của Thanh Thảo làm tôi nhớ tới những lần được nghe Tế Hanh
trò chuyện, nhận xét về thơ Ta, thơ Tây. Tế Hanh cũng là người “tinh lắm” trong
việc thẩm định thơ.
Nhà thơ Việt Phương kể với tôi, vào năm 1963 ông đem mấy
bài thơ tình nhờ Tế Hanh đọc. Ít lâu sau, Tế Hanh nói với Việt Phương: “Phương
viết những bài nghĩ về tình yêu chứ không phải những bài thơ tình”. Đến
hôm nay Việt Phương vẫn còn nhớ lời nhận xét ấy hẳn vì nó vừa chân tình vừa xác
đáng. Lại nhớ, trong bài Kinh nghiệm làm thơ, Tế Hanh có một
đoạn thơ so sánh thâm thúy giữa việc làm thơ/ bài thơ và tình yêu/ người
yêu: “Mỗi lần làm thơ tôi lại như bắt đầu/ Hơn mười năm làm thơ, tôi
chưa rút ra kinh nghiệm/ Như một người đang yêu, tôi chỉ biết/ Tôi yêu. Tình
yêu có kinh nghiệm gì đâu” và “Một bài thơ hay như bóng dáng người yêu/ Càng
lâu càng mơ, càng xa càng nhớ”.
Tế Hanh tự hỏi: Tôi phải làm thế nào/ Khi tôi bảy,
tám mươi tuổi người ta vẫn còn đọc thơ tôi.
Có lẽ không ít người nghĩ đến điều đó nhưng chỉ duy nhất
Tế Hanh thổ lộ trước chúng ta. Sự chân thành này nuôi sống thơ Tế Hanh. Hàng
trăm năm sau người đọc vẫn sẽ nhớ đến những dòng thơ chân tình tha thiết, những
nỗi buồn thương của Tế Hanh. Cái ánh ngọc dịu dàng ấy sẽ mãi lặng thầm tỏa sáng
trong tâm hồn chúng ta. “Ta sẽ giã từ đời. Thơ vẫn ở/ Trong mùa xuân vĩnh viễn
góp vui chung”.
* * *
Các bác, các chú Khương Hữu Dụng, Yến Lan, Trinh Đường,
Nguyễn Đình, Nguyễn Văn Bổng, Tế Hanh là bạn của ba tôi từ hồi còn ở Văn Nghệ
Liên khu 5. Khi tập kết ra Bắc, mối quan hệ này vẫn tiếp nối, thân tình, gần
gũi. Ba tôi chuyên ngành Sân khấu, con của các bác các chú lại ít ai theo nghiệp
cha. Vì vậy, tôi được các bác các chú để tâm dìu dắt. Bác Khương Hữu Dụng, chú
Trinh Đường và chú Tế Hanh thường gặp gỡ, trò chuyện với tôi về Thơ, như với một
người đồng nghiệp trẻ. Em trai của chú Tế Hanh, nhạc sĩ Thế Bảo là bạn thân của
nhà tôi từ ngày nhỏ ở quê Bình Sơn, Quảng Ngãi. Mối quan hệ nhiều riềng mối này
khiến chú cháu thân nhau hơn. Có lần chú đến nhà tôi ở khu tập thể Đại học Tổng
hợp, phố Lò Đúc tặng tập Thơ thiếu nhi cho các con tôi. Tiếc
là tập thơ đã bị thất lạc, trong tủ sách của chúng tôi chỉ còn lại Tuyển
tập Tế Hanh in năm 1987 với lời đề tặng: Tặng Ý Nhi, gửi Nguyễn
Lộc của chú. Năm 1974, sau một thời gian làm thơ, có thơ in nơi này
nơi khác, tôi được chú Tế Hanh nhắn chọn thơ đưa tới nhà xuất bản Văn học- nơi
chú đang làm việc. Sau này, thơ tôi và Lâm Thị Mỹ Dạ được in chung trong tập Trái
tim - Nỗi nhớ. Nếu không có lời nhắn của chú, hẳn tôi không dám đem thơ đến
một nhà xuất bản lớn như vậy. Tôi hiểu, ngoài sự quan tâm đến thơ trẻ nói
chung, chú còn quan tâm đến đứa cháu cùng tên với người con gái đầu lòng, do
hoàn cảnh chiến tranh, chú chưa được gặp. Sau ngày thống nhất đất nước, chú vào
Đà Nẵng. Vốn rụt rè, chú nhờ ba tôi đưa đến thăm gia đình cô Phụng và Ý Nhi. Ba
tôi kể, suốt cuộc gặp gỡ, chú rất xúc động, gần như không nói được điều gì. Dịp
khác, chú cùng vợ chồng Ý Nhi đến thăm ba mẹ tôi. Ý Nhi có đôi mắt đẹp giống
chú.
Sau 1975, tôi
về làm việc tại Nhà xuất bản Tác Phẩm mới, cùng ở trong số nhà 65 Nguyễn Du của
Hội Nhà văn. Nhà chú ở Nguyễn Thượng Hiền, cùng khối nhà với cơ quan nên chú thường đi bộ đến Hội. Thỉnh
thoảng chú lại ghé lên Nhà xuất bản, khi thì trò chuyện với Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân, khi thì
trò chuyện với Xuân Quỳnh, Lê Minh Khuê, khi ghé vào phòng giám đốc, gặp Vũ Tú
Nam, Nguyễn Kiên và thường ghé vào
Phòng biên tập Thơ của tôi.
Câu chuyện của
chú chỉ xoay quanh chuyện văn chương, mặc dù ở Hội Nhà văn lúc ấy có khối chuyện
để người ta thì thầm to nhỏ. Có lần, chú đến chơi gặp lúc Nhà xuất bản
đang họp (NXB thời kỳ này tập hợp được một số anh chị em xuất sắc trong các
lĩnh vực. Ai cũng lo làm việc, chẳng màng chuyện địa vị, chức tước…nên không
khí rất vui). Tế Hanh kéo ghế ngồi cạnh Xuân Quỳnh và tôi - 2 tên đến trễ, ngồi
bên ngoài, đang mải mê tán chuyện. Như mọi khi, chú chỉ ghé chơi, chẳng để tâm đến việc người ta đang bàn luận
và biết vậy, mọi người vẫn tiếp tục bàn soạn công việc, tranh cãi, thảo
luận, không ngần ngại. Tế Hanh là vậy, thực thà, hiền hậu, mơ màng. Có lúc yêu một ai đó, Tế Hanh cũng chỉ biết
làm thơ: “Em biết không giữa anh và em/
Không nói được nhiều hơn là nói được”, cũng chỉ biết: “Cùng đi một quãng nói
bằng lặng im”, cũng chỉ có thể Thêm yêu Hà Nội vắng đầy cả em”. Mà nếu muốn
tặng quà thì cũng chỉ có thể tặng em: “Mây
nổi trên ngàn/ Trăng phơi đầu bến, biển vang cuối bờ… Tặng em thế kỷ chúng ta/
Nỗi vui nỗi khổ đều qua vội vàng”. Chẳng may, em bỏ ta mà đi thì đành tự an
ủi: “Mất người yêu ta còn lại
tình yêu”.
...
Nhưng chú đọc thơ thì thật tinh ý, thật nhạy cảm. Năm 1981,
sau chuyến đi Tiệp Khắc, tôi in hai bài thơ trên báo Văn Nghệ. Gặp tôi trước cổng
Hội Nhà văn, chú bảo: Hai bài đều khá nhưng chú thích bài Một buổi chiều
ở Praha hơn. Chú bảo, chú cũng có viết về Praha nhưng đó là một Praha
khác. Nghĩ một chút, chú nói thêm:
Mà cháu cũng khác rồi. Mãi sau này, khi đã qua một thời
gian viết và chuẩn bị cho xuất bản Người đàn bà ngồi đan, tôi
mới hiểu hết ý của chú. Quả thật, Một buổi chiều ở Praha là
bài thơ mở đầu cho một giai đoạn khác của thơ tôi. Nhà xuất bản nhờ chú đọc
giám định tập Người đàn bà ngồi đan.Chú gặp tôi, bàn bạc kỹ cách chọn
bài và đề nghị rút bài Nguyễn Du, 1813 ra khỏi tập. Tôi tiếc lắm
nhưng vẫn làm theo vì biết chú lo cho tôi. Quả nhiên, khi bài thơ in trên Tạp
chí Sông Hương, có người đã gọi bài thơ là, Ý Nhi, 1983, có ý cho rằng tôi có
tâm trạng không tích cực… Khi tập thơ được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn, với
tư cách ủy viên Hội đồng Thơ, chú đã có bài viết nhận xét, đăng trên báo Văn
nghệ, có tiêu đề Sự hình thành một bản lĩnh thơ. Chú cho rằng: “sự
phản ảnh thực tại ở đây là tâm trạng của nhà thơ… tất cả là độc thoại…những cảm
xúc nội tâm ấy được nâng lên trong một lối diễn tả mới mẻ. Ý Nhi thuộc vào lớp
những nhà thơ đã đi xa cách diễn tả sẵn có từ phong trào thơ mới”.
Hồi chú Tế Hanh bị đau mắt, tôi thường ghé qua nhà thăm
cô chú. Chú buồn lắm vì đi lại khó khăn, và nhất là vì không được đọc sách. Tôi
nhớ, ít nhất chú có 3 bài thơ liên quan đến sách: Tình yêu của sách,
Câu chuyện đọc sách, Cái tủ sách của cha tôi. Chú từng viết: Có tập thơ dính đầy
bụi bặm/ Thời gian toan phủ một màu quên/ Có tập bị chuột ăn, gián gặm/ Tôi tưởng
chừng da thịt tôi rên… Chỉ có sách: một niềm chung thủy/ Sách chẳng bao giờ nỡ
bỏ ta… Vậy mà, oái oăm thay, đôi mắt đẹp của chú cứ ngày một mờ đi: Mắt
anh không được như xưa/ Nhìn đêm bỡ ngỡ, nhìn trưa bàng hoàng… Mắt em ngày trước
hồ trong/ Anh nhìn đôi lúc ngỡ vòng sương rơi/ Nói sao hết được em ơi/ Anh
không thể bắt cuộc đời đứng yên.
Không thể đọc sách, không thể đi xa, chú thường đi quanh
hồ Thiền Quang, cái hồ rất đẹp chỉ cách nhà chú vài trăm mét. Nếu như ngày trước Tôi
đi quanh hồ hàng nghìn cây số/ Bước tôi đi đo thử bước thời gian/ Trong đời tôi
những vui buồn sướng khổ/ Hồ biết không, hỡi hồ Thiền Quang… Thì sau này: Đi
dò dẫm bên hồ từng bước/ Tôi thấy hồ như một khối mơ hồ/ Tôi biết hồ nhờ nghe
qua hơi nước/ Đi bên hồ như bước giữa hư vô… Trên đường đến nơi làm việc,
tôi thường nhìn thấy Tế Hanh bước chậm rãi quanh hồ, dáng phân vân, nghĩ ngợi.
Hình ảnh đó đã gợi cho tôi viết bài thơ Nhà thơ và cái hồ nhỏ. Tôi
muốn dùng bài thơ để kết thúc bài viết về Tế Hanh, người từng đặt câu hỏi: Đời tôi thực hay mộng/ Đời tôi buồn hay vui.
NHÀ THƠ VÀ
CÁI HỒ NHỎ
Khi đời đã trụi trần, đối
diện với mình đây
(Mùa thu-E. Evtusenko)
Mặt hồ quen từ buổi thiếu thời
chợt sáng lên như mảnh gương
trong mùa đông
của tuổi sáu mươi
và cái ánh mới
mẻ ấy
vừa đẩy ông ra
xa
vừa vẫy gọi
ông
tìm đến
soi nhìn.
Những cuốn sách mang tên ông
những phần thưởng
những diễn đàn
những bài viết
ngợi khen
những chào mời
vồ vập
những bức ảnh
in to và rõ nét
những chương
trình phát thanh và vô tuyến truyền hình
Phải chăng
đó là cuộc đời ông
Giọt nước mắt ràn rụa qua gương mặt
hạnh phúc
nụ cười cay đắng
trước trò đùa nghiệt ngã của số phận
cái giá của tự do
mặt trái của quyền lực
sự nhân nhượng
của con người trước cái ác
ranh giới giữa
cái đẹp và sự phù phiếm
bao ý
nghĩ từng giày vò ông
và như một chứng
bệnh
chúng không thể
chữa khỏi bằng thứ vinh quang ông có được
Phải chăng
đó là cuộc đời
ông
Lòng đố
kỵ giấu kín dưới từ ngữ đẹp đẽ
sự phản trắc được giải thích bằng những lý lẽ sắc sảo
ham muốn tầm thường
được che đậy bằng câu chuyện bông đùa
và nỗi sợ hãi
hầu như vô
nguyên cớ
suốt đời đè nặng
ông bằng sức nặng vô hình
suốt đờ trói buộc ông bằng dây nhợ vô hình
Phải chăng
đó là cuộc đời ông
Trong những chiều
Nhà thơ thường
đi quanh cái hồ quen
vẻ như khách lạ.
4/1987
Ý NHI
Nguồn: Tiền Phong